Chính ra cũng giống như Quảng Đức, Tuyên Đức không có lịch sử, vì lịch sử của tỉnh này là lịch sử chung của mấy tỉnh miền Cao Nguyên mới được thiết lập trên đất Đồng Nai Thượng.
Tuyên Đức được thành lập do một phần lớn đất của quận Dran cũ, nay là quận Đơn Dương, nguyên thuộc tỉnh Lâm Đồng và một phần đất của thị xã Dalat.
Trong lúc đầu, Thị trưởng thành phố Dalat kiêm nhiệm chức vụ Tỉnh trưởng Tuyên Đức. Sau này hồi cuối năm 1961, tỉnh Tuyên Đức có một ông Tỉnh trưởng riêng biệt nhưng tỉnh lỵ vẫn đặt tại Dalat.
Ngược dòng thời gian người ta được biết vùng Tuyên Đức đã được phái đoàn Thouard Cunhac và Guynet đến nghiên cứu năm 1897, 1898 và phái đoàn Ernest Outrey đến khảo sát năm 1899. Sau đó một trung tâm Hành chánh được thiết lập ở vùng Tuyên Đức tức Dalat vào năm 1897 và một tỉnh được thành lập cạnh Dalat 60 cây số về phía Tây Nam vào năm 1899.
Cũng bắt đầu từ thời kỳ đó, đồng bào Kinh mới lên vùng này sinh sống làm ăn, rồi thấy khí hậu tốt lành, đồng bào Thượng địa phương hiền hòa, hiếu khách nên ở lại lập nghiệp.
Nhưng người Pháp dần dần ngăn chặn không cho người Kinh lên vùng này. Đến tháng 7 năm 1954, khi Hiệp định Genève được ký kết, người Pháp phải rời bỏ vùng Cao Nguyên. Người Bắc di cư vào và lên đây định cư rất đông vào khoảng 12.630 người và thành lập những xã hay ấp rất quan trọng trong tỉnh như: xã Tùng Nghĩa, xã Lạc Lâm, xã Thanh Bình, ấp Phát Chi; số người này chiếm 1/6 tổng số dân chúng trong tỉnh.
VỊ TRÍ
Với một diện tích vào khoảng 4.704 cây số vuông, nằm về phía Nam dãy núi Trường Sơn trên cao độ 1.000m và giáp với nhiều tỉnh.
- Về phía Đông với tỉnh Khánh Hòa và Ninh Thuận
- Về phía Nam với tỉnh Bình Thuận và Lâm Đồng
- Về phía Tây với tỉnh Quảng Đức
- Về phía Bắc với tỉnh Đarlac
ĐỊA THẾ
Là một tỉnh của Cao Nguyên, phần lớn tỉnh Tuyên Đức đều là đồi núi, có nhiều ngọn núi cao:
Núi Chu - Yan - Sin 2.405 thước
Núi Bi - Doup 2.267 thước
Núi Lang - Bian 2.163 thước
Núi Yan - Cung- KLang 2.004 thước
Núi Dan - Dcha 1.956 thước
Núi Hon - Nga 1.948 thước
Núi Chu - Yên -Du 1.913 thước...
Các núi đều có cây cối rậm rạp bao phủ thành rừng, phần nhiều là rừng thông.
Về địa chất núi đồi gồm đá diệp thạch (shiste) và sa thạch (grès) biến thể nhiều chỗ lại được bao phủ một lớp đá huyền vũ nay đã mụn ra thành đất đỏ. Đất ít đá lại pha thêm cát và một ít đất sét trắng nên rất thích hợp cho việc trồng trọt. Khi đồng bào Kinh lên đây khai khẩn lập ấp thì vùng này đã trở nên những nơi trồng cây ăn trái và hoa rau rất trù phú.
SÔNG NGÒI
Tuyên Đức có nhiều sông suối, những sông suối này phần lớn đều chảy vào sông Đồng Nai, và đều không dùng thông thương được vì không những chảy qua các vùng núi cao mà lại có nhiều đá hoặc cồn cát nằm ở giữa dòng. Về mùa mưa, nước lại chảy thành ghềnh thác rất nguy hiểm.
Mấy con sông chính là: Sông Đa Nhim, sông Cam Ly, Sông Đa Dung và Sông Krông Nô.
Sông Đa Nhim dòng nước chảy mạnh, phát nguyên từ vùng đồi núi Gia Rích cao 1.923 thước ở ranh giới ba tỉnh: Khánh Hòa, Ninh Thuận, Tuyên Đức. Chính phủ đã xây đập trên dòng sông này ở Đơn Dương và lập nhà máy thủy điện. Sông này có nhiều thác nổi danh nhất là những thác Liên Khương, Gougah và Pongour.
Sông Cam Ly phát nguyên từ núi You Boggey cao 1.734 thước ở Dalat.
Sông Đa Dung phát nguyên từ vùng núi Lang - Bian cao 2.163 thước với dòng nước chảy khá mạnh. Trên sông này có xây một cái đập ở Suối Vàng và một nhà máy thủy điện ở Ankroét cung cấp điện cho thị xã Dalat.
Cả ba dòng sông này chảy vào sông Đồng Nai ở ranh giới hai tỉnh Tuyên Đức và Lâm Đồng.
Sông Krong - Kno bắt nguồn từ núi Hòn Gia Lô cao 1.812 thước ở ranh giới ba tỉnh Khánh Hòa, Darlac và Tuyên Đức. Krong - Kno có nghĩa là sông Đực đối với Krong Ana là sông Cái. Hai sông Đực, Cái được thổ dân Rhadé đặt tên và đều chảy qua địa phận tỉnh Darlac. Núi Hòn Gia Lô và núi Gia Rích đều nằm trong dãy núi Bi-Doup thuộc tổng Nhân Lạc, quận Lạc Dương.
KHÍ HẬU
Tuyên Đức ở một cao độ hơn Saigon 1.000 thước nhưng thấp hơn Dalat 500 thước, do đó khí hậu ở đây có khác khí hậu hai nơi kia, không quá nóng như ở Saigon và cũng không quá lạnh như ở Dalat. Thời tiết ở đây mát dịu quanh năm và chịu ảnh hưởng rõ rệt của hai mùa:
- Mùa nắng từ tháng 11 đến tháng 4 dương lịch, có gió Đông Bắc, tương đối lạnh không mưa.
- Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10 dương lịch, có gió Tây Nam, mát và ẩm ướt, mưa nhiều.
Nhiệt độ thấp nhất về mùa lạnh là 6 độ 6 và cao nhất về mùa nóng là 29 độ.
Về mùa mưa, có năm có mưa đá nhưng cũng rất ít, ba bốn năm mới có một lần.
DÂN CƯ
Dân chúng Tuyên Đức gồm có người Kinh và người Thượng. Theo sự kiểm kê năm 1968, tổng số dân chúng toàn tỉnh là 82.395 người gồm 50.863 người Kinh, 31.532 người Thượng và ngoại kiều.
Đồng bào Thượng tỉnh Tuyên Đức gồm các sắc tộc Koho, Chill, Sré, Mạ, Churu và Raglai.
GIAO THÔNG
Việc giao thông trong tỉnh tuy chưa được mở mang lắm nhưng cũng đủ đường bộ và đường xe lửa.
Đường bộ: Đường bộ có 3 quốc lộ: Quốc lộ 20, Quốc lộ 11 và Quốc lộ 21.
Quốc lộ 20: nối liền Saigon với Dalat, chạy qua tỉnh Tuyên Đức trên một quãng dài 40 cây số. Trên đoạn đường này có đèo Prenn dài 10 cây số ở sát ngay của ngõ vào Dalat.
Quốc lộ 11: nối liền Dalat với Phan Rang chạy qua tỉnh Tuyên Đức trên một quãng dài 42 cây số rưởi và đi qua quân lỵ Đơn Dương. Trên đoạn đường này có hai đèo: đèo Trạm Hành dài 10 cây số và đèo Ngoạn Mục, trước người Pháp gọi là Bellevue dài 30 cây số.
Quốc lộ 21: nối liền Quốc lộ 20 với Quốc lộ 11, chạy qua thung lũng Đơn Dương, dài 27 cây số.
Đường xe lửa: Đường xe lửa từ Dalat đi Tourcham có 53 cây số chạy qua tỉnh Tuyên Đức với các ga: Đa Thọ, Cầu Đất, Trạm Hành, Đơn Dương và Eo Gió (Bellevue).
Thủy lộ: Mặc dầu Tuyên Đức có 4 con sông, nhưng sự đi lại trên những con sông đó không được vì những lý do đã được trình bày ở mục sông ngòi.
Đường hàng không: Hiện nay ở Tuyên Đức có một phi trường ở Liên Khương với một đường bay dài 1.480 thước và rộng 40 thước trang bị các dụng cụ tối tân để có thể tiếp nhận được các loại phi cơ lớn, ngày cũng như đêm, trời tốt cũng như trời xấu.
Hãng hàng không Việt Nam trong mấy năm gần đây có vào khoảng 1.080 chuyến bay hàng năm với số hành khách ước lượng 20.000 người.
TỔ CHỨUC HÀNH CHÁNH
Tỉnh Tuyên Đức có 3 quận và một cơ sở Phái viên Hành chánh.
Quận Đức Trọng có 4 tổng (2 Kinh và 2 Thượng) gồm 11 xã (6 Kinh và 5 Thượng) với 60 ấp (26 Kinh và 34 Thượng)
Quận Đơn Dương có 4 tổng (2 Kinh và 2 Thượng) gồm 9 xã (4 Kinh và 5 Thượng) với 92 ấp (32 Kinh và 60 Thượng)
Quận Lạc Dương có 3 tổng (1 Kinh và 2 Thượng) gồm 8 xã (2 Kinh và 6 Thượng) với 26 ấp (6 Kinh và 20 Thượng)
Cơ sở Phái viên Hành chánh Damrong có 3 xã Thượng, trong đó có xã Romène không có dân. Cơ sở này thuộc Quận lạc Dương.
Tổng cộng toàn tỉnh là 11 tổng, 27 xã và 178 ấp.
Đứng đầu tỉnh là một vị tỉnh trưởng có hai phố tỉnh trưởng phụ tá về Hành chánh và Thượng vụ.
Ngoài ra tỉnh trưởng còn có 1 tiểu khu trưởng để lo các vấn đề Quân sự. Để điều hành công việc, tỉnh trưởng có văn phòng và các Ty sở chuyên môn giúp việc.
Đứng đầu các Quận có các Quận trưởng. Riêng cơ sở phái viên hành chánh Damrong do một phái viên Hành chánh đứng đầu trực thuộc Quận Lạc Dương.
PHONG TỤC
Các người Thượng tin tưởng ở thần quyền và thờ các thần linh về sông, núi, rừng, lửa, v.v.... Hàng năm họ có tổ chức cúng tế thần linh, giết trâu, bò, lợn gà và uống rượu cần.
Các đồng bào người Kinh đa số theo đạo Phật và đạo Gia Tô, nhưng cũng có người theo đạo Tin lành và đạo Cao Đài. Theo bản thống kê cuối cùng của toàn tỉnh thì số người Kinh theo các tôn giáo như sau:
Đạo Phật 60%
Đạo Gia Tô 32%
Đạo Tin Lành 5%
Đạo Cao Đài 1%
Các đạo khác 2%
Phong tục và tập quán của người Thượng rất phức tạp, trong đời sống còn mang nặng nhiều điểm chưa mấy tiến bộ. Họ sống giữa rừng núi, thiếu đường giao thông để tiếp xúc với xã hội bên ngoài. Về mỗi sắc dân, chúng tôi đã trình bày ở phần thứ hai với đủ phong tục tập quán.
Nói riêng về tỉnh Tuyên Đức người Churu tiến bộ hơn cả. Họ ở gần miền duyên hải, chịu ảnh hưởng của văn minh Chàm và đã sớm tiếp xúc với người Kinh, người Chill, người Mạ và người Srê so với các sắc tộc khác cũng đáng gọi là tiến bộ.
Ngày nay, với sự giao tiếp giữa Kinh và Thượng, các đồng bào Thượng đã chịu ảnh hưởng phần nào nếp sống của người Kinh. Nhiều đồng bào Thượng đã dùng y phục theo người Kinh.
Có điểm đáng quý ở các đồng bào này là họ rất hiếu khách. Mỗi khi có khách lạ tới nhà, họ tiếp đãi rất ân cần niềm nở. Họ thường mới khách uống rượu cần và dành cho khách nghỉ ngơi ở những gian nhà sàn rộng rãi, sạch sẽ.
KINH TẾ
Nền kinh tế Tuyên Đức so với các tỉnh Quảng Đức và Lâm Đồng vó vẻ phát đạt hơn, nhờ các hoạt động canh nông và kỹ nghệ của tỉnh.
Canh nông: Nông sản chính của Tuyên Đức là lúa nhưng sự sản xuất trong tỉnh cũng không dễ dàng. Dân chúng trong tỉnh trồng ba thứ lúa khác nhau trên một diện tích trung bình 1.550 mẫu tây. Ba giống lúa là:
- Lúa Sạ, canh tác từ tháng 5 tới tháng 12 dương lịch, năng suất trung bình 500 kilô một mẫu tây, toàn tỉnh trồng 90 mẫu loại lúa này với các giống Koiton, Koine và Koimibar.
- Lúa cấy, canh tác từ tháng 5 đến tháng 12 dương lịch, năng suất trung bình từ 2.000 đến 2.500 kilô một mẫu tây; toàn tỉnh trồng 320 mẫu với các giống lúa hạt nhỏ, hạt to và lúa thơm.
- Lúa rẫy, canh tác từ tháng 4 tới tháng 12 dương lịch, năng suất trung bình 1.500 kilô một mẫu tây, toàn tỉnh trồng 320 mẫu với giống lúa này.
Để giúp đỡ dân chúng có nước cày cấy, tỉnh Tuyên Đức hiện có 3 đập nước ở quận Đơn Dương: đập Karango, Prongó và M’rang
Một đập thứ tư được dự định kiến tạo ở ấp Đường Mới, xã Lạc Nghiệp, quận Đơn Dương.
Ngoài lúa ra, Tuyên Đức còn có các hoa màu phụ:
Rau cải sản xuất hàng năm 30.000 tấn
Khoai Lang sản xuất hàng năm 13.500 tấn
Khoai tây sản xuất hàng năm 3.150 tấn
Hành tây sản xuất hàng năm 1.200 tấn
Lại còn ngô, sắn, lạc, tỏi và các cây ăn trái: chuối, đu đủ, mận, xoài.
Về các cây kỹ nghệ thì có chè, số sản xuất hàng năm là 350 tấn với một diện tích 620 mẫu tây.
Tuyên Đức cũng sản xuất cả cà phê với một diện tích 650 mẫu tây, hàng măm được 135 tấn.
Lâm sản: ngoài những cây được trồng trọt, với rừng núi bao la, tỉnh đã sản xuất hàng năm một số gỗ và lâm sản đáng kể gồm: Huỳnh đàn, trắc bách diệp, cẩm lai, ngo tùng, sao, bạch tùng, thông, tre, nhựa thông, bột nhang ...
Mục súc: Việc chăn nuôi tại Tuyên Đức rất phát triển. Theo thống kê năm 1963, tại khắp các tỉnh dân chúng nuôi:
4.000 con trâu dùng trong việc cày bừa và kéo gỗ.
5.100 con bò
10.000 con lợn
500 con ngựa.
Ngoài ra, có nơi nuôi cả dê cừu. Gà vịt cũng được dân chúng trong tỉnh nuôi nhiều.
Ngư nghiệp: tuy là một tỉnh ở vùng núi, nhưng ở Tuyên Đức hàng năm các sông hồ cũng cung cấp được từ 600 đến 800 tấn cá.
Cá có nhiều ở hồ lớn, hồ đập Suối Vàng rộng lối 120 mẫu tây thuộc quận Lạc Dương và hồ Đa Nhim rộng lối 1.000 mẫu tây thuộc quận Đơn Dương.
Trong mấy năm gần đây, dân chúng có nuôi nhiều loại cá: cá chép, cá phi, các giếc, cá hạc ngư...
Khoáng sản: Cho tới ngày nay chưa có mỏ kim loại nào được tìm ra ở địa hạt tỉnh, nhưng trong tỉnh có nhiều hầm đất sét trắng, đá xanh và cát sạn rất hữu ích trong việc xây cất nhà của, đường sá, cầu cống v.v...
Thương mại: Tuyên Đức bán ra các rau cỏ, các lâm sản và mua vào những phẩm vật chế hóa.
Hiện thời trong tỉnh có hai ngôi chợ lớn:
Chợ Đơn Dương tại xã Lạc Nghiệp, quận Đơn Dương
Chợ Tùng Nghĩa tại xã Tùng Nghĩa, quận Đức Trọng
Kỹ nghệ: Tại Tuyên Đức hiện nay có các trung tâm kỹ nghệ sau đây đáng kể:
- Công ty trà Cầu Đất, xã Xuân Trường quận Đơn Dương chế hóa chè.
- Công ty lò gốm Vĩnh Tường, xã Hiệp Thạnh, quận Đức Trọng, hàng năm sản xuất gần 4.000.000 bát đĩa và đồ sành đồ sứ.
- Công ty cà phê Bắc Hội, xã Thạnh Mỹ, quận Đơn Dương, chế hóa cà phê.
- Công ty Trường Thanh nông nghiệp, quận Đức Trọng.
- Nhà máy thủy điện Đa Nhim.
Ngoài những cơ sở lớn trên, trong tỉnh có mấy hãng cửa, lò làm bánh mì, xưởng sửa chữa xe hơi v.v...
Cũng phải kể tới các tiểu công nghệ như dệt vải, đan các đồ dùng bằng tre của đồng bào Thượng.
XÃ HỘI
Cũng như đối với các tỉnh khác ở Cao Nguyên vấn đề xã hội ở Tuyên Đức luôn luôn cần được lưu ý tới, về mặt giáo dục cũng như về mặt y tế.
Giáo dục: Hiện ở Tuyên Đức việc giáo dục đang trên đường mở mang.
Về bậc trung học, tỉnh có hai trường công lập ở Đức Trọng và Đơn Dương. Ngoài hai trường trên các tư nhân có thêm năm trường tư thục, hai ở quận Đức Trọng và ba ở quận Đơn Dương.
Về bậc tiểu học, tỉnh có tất cả 11 trường tiểu học và 12 trường sơ cấp công lập. Bên cạnh các trường này còn có 8 trường tiểu học và sơ cấp tư thục.
Ngoài các trường trên, tỉnh còn có 10 lớp bình dân giáo dục tại 3 quận, lại còn những trường ở các ấp Đời mới tổng cộng 54 trường.
Y tế: Tuyên Đức hiện có 4 bệnh xá và 4 nhà hộ sinh có đủ nhân viên gồm cán sự y tế, nữ hộ sinh quốc gia, tá viên điều dưỡng, y tá, v.v... phụ trách.
Các tổ chức xã hội khác: Về mặt xã hội phải kể cả các nơi tập trung đồng bào Thượng lánh nạn chiến tranh. Hiện có nhiều ấp được thành lập để các đồng bào này gây dựng lại cơ nghiệp: Đamé, Đơng Tiêng Liên, Phi Liêng, Suối Thông, Hang Roi, v.v...
Ngoài ra dân chúng lại tổ chức hợp tác xã và các hiệp hội nông dân để giúp đỡ lẫn nhau.
THẮNG CẢNH, CỔ TÍCH VÀ DU LỊCH
Tuyên Đức không có những di tích lịch sử ngoại trừ ba ngôi đền cổ : Kreyo, Sopmatronghay và Msré ở xã Loan quận Đơn dương do người Chàm xây cất trước đây ở một nơi rừng núi âm u, lối vào rất hiểm trở.
Không có những nơi cổ tích, nhưng thắng cảnh lại rất nhiều để du khách có thể đi thăm.
- Đèo Ngoạn Mục: (Bellevue) dài 20 cây số trên quốc lộ 11, nằm trên dãy núi ngăn cách Phan Rang với Tuyên Đức. Phong cảnh đèo rất đẹp. Đứng trên đèo có thể nhìn thấy cả bãi bể miền duyên hải Trung phần.
- Hồ và đập Đa Nhim: thuộc quận Đơn Dương, cách thị xã Dalat 36 cây số. Đập Đa Nhim là một công trình thủy điện đại quy mô, mỗi năm có thể cung cấp 840 triệu KW điện lực.
- Đập Suối Vàng: Cách Dalat 18 cây số, đập xây bằng đá theo vòng cung rất đẹp lại có hồ chứa nước.
- Thác Datanla: Cách Dalat 3 cây số trên quốc lộ 20, ngay khoảng đèo Prenn.
- Thác Prenn và vườn thú: Cách Dalat 10 cây số nằm sát bên quốc lộ số 20,
- Thắng cảnh Bồng Lai: Cách Dalat 27 cây số, cạnh quốc lộ 20 và cách phi trường Liên Khương độ 1 cây số
- Thác Liên Khương: Gần phi trường Liên Khương và cách Dalat 29 cây số trên đường Dalat đi Saigon
- Thác Gougah: Cách thị xã Dalat 37 cây số trên đường Dalat đi Saigon.
- Thác Pongour: Cách Dalat 50 cây số trên đường Dalat đi Saigon, ở khoảng cây số 250, rẽ vào một đường đất ước độ 7 cây số thì tới nơi.
Tất cả những thác nói trên đều có một vẻ rất hùng vĩ, và phong cảnh lại nên thơ, khiến du khách ai đã qua thăm sẽ ghi nhớ mãi mãi.
***
Tỉnh Tuyên Đức là một tỉnh có nhiều hứa hẹn tương lai, nơi hấp dẫn rất nhiều du khách vì khí hậu mát mẻ, dễ thích hợp hơn Dalat, lại có nhiều thắng cảnh danh tiếng thuận tiện cho những cuộc đi chơi cắm trại và có nhiều con thú để săn bắn đặc biệt như hổ, min...
Thêm vào đó lại có hồ Đa Nhim rồng 100 mẫu để có thể nuôi cá và tiếp tế nước ngọt cho toàn vùng.
Đất đai lại rất thuận lợi cho việc trồng trọt đặc biệt nhất là những rau hoa trước kia phải nhập cảng như khoai tây, hành tây, tỏi tây, laieul, tulipe, v.v...
Núi rừng Tuyên Đức lại còn có loại thông 2 lá để làm cô-lô-phan, dầu nhựa thông và loại thông 3 lá dùng làm bột giấy.
DALAT - XỨ HOA ANH ĐÀO
Dalat là một thành phố lớn và đẹp của miền Thượng Cao Nguyên, và được coi như là Thủ đô của Cao Nguyên và Trung tâm văn hóa của Việt Nam.
Đà Lạt là do phiên âm của chữ Dalat, Da có nghĩa là sông, suối. Lạt là tên một bộ lạc Thượng sinh sống ở đó. Dalat có nghĩa là sông của người Lạt (hiện giờ là suối Cam Ly)
Từ cuối thế kỷ XIX về trước, Dalat chỉ là một vùng đồi cỏ hoang vu ở vùng núi Langbian cao 2.100 thước, quanh co một con đường nhỏ, lác đác vài căn nhà sàn của đồng bào Thượng.
Ngay khi người Pháp mới xâm chiếm Việt Nam, vùng Dalat nằm dưới quyền cai trị của một vị Tù trưởng Thượng lên là Yagut, đã từng chiến đấu chống lại thực dân và đã trở nên một anh hùng của Cao Nguyên và được Thị xã Dalat ghi ơn lấy tên đặt cho một con đường.
Trong cuộc Nam tiến của tổ tiên ta, vùng Dalat đã được sáp nhập vào tỉnh Khánh Hòa, mặc dầu việc khai thác miền sơn cước chưa được các tiền nhân ta lưu ý tới.
Mãi cho tới khi người Pháp đô hộ Việt Nam, chính quyền mới cử phái đoàn Yersin lên thăm thú miền rừng núi này vào năm 1897.
Sau khi cuộc khảo sát của phái đoàn Thouard Cunhac và Guynet vào các năm 1897 và 1898, viên toàn quyền Paul Doumer cho xây dựng sở khí tượng và lập một căn cứ thí nghiệm trồng trọt ở vùng này, đồng thời cho mở một con đường từ miền duyên hải Trung Việt lên đây. Thị xã Dalat bắt đầu thành hình.
Năm 1899, chính Toàn quyền Paul Doumer cũng lên viếng thăm Dalat, và sau đó ông cho lập dinh thự và đặt đồn lính khố xanh ở đây. Một viên Đốc lý người Pháp được bổ nhiệm với nhiệm vụ mở mang thành phố này.
Rồi Toàn quyền Doumer về Pháp, chương trình của ông ta không được tiếp tục thực hiện.
KHÍ HẬU
Quanh năm khí hậu mát mẻ và ít thay đổi về thời tiết. Khí hậu trung bình trong năm là 18 độ, thấp nhất là 6 độ và cao nhất là 28 độ.
Giống như khí hậu trong toàn tỉnh Tuyên Đức, Đà Lạt cũng có hai mùa mưa nắng rõ rệt.
Mùa nắng từ tháng 11 đến tháng 5.
Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11.
DÂN CƯ
Là một thị trấn quần cư, Đà Lạt có nhiều giống người nhưng đông nhất là người Việt Nam ở thị xã và người Thượng sắc dân Lạt ở chung quanh.
Tổng số dân chứng vào khoảng 75.000 người.
GIAO THÔNG
Trước đây là thủ phủ Hành chánh của miền Cao nguyên Đà Lạt có các đường giao thông nối liền với Saigon và các tỉnh.
Đường bộ:
- Đà Lạt đi Saigon, dài 305 cây số qua Di Linh và Bảo Lộc.
- Đà Lạt đi Phan Rang, dài 108 cây số, rồi đi Nha Trang thêm 110 cây số.
- Đà Lạt đi Saigon, dài 375 cây số qua ngã Phan Thiết.
Ngoài ra lại có các đường từ Đà Lạt đi Ban Mê Thuột hoặc do đường Liêng Khương ngang qua Fyan và Lạc Thiện, hoặc do đường đi từ Di Linh qua Kinda và tiếp nối quốc lộ Saigon đi Ban Mê Thuột tại Ba Biên Giới.
Lại có một đường quân sự Đà Lạt đi Nha Trang qua Đassar.
Đường xe lửa:
Đà lạt - Tháp Chàm qua Krongpha. Từ Tháp Chàm, đường xe lửa tiếp với đường xe lửa xuyên Việt.
Đường hàng không:
Đà Lạt có sân bay Cam Ly cách Đà Lạt 3 cây số về phía Tây dùng cho các máy bay nhẹ và máy bay quân sự.
Ngoài ra du khách đi Đà Lạt thường dùng đường hàng không mà máy bay đáp xuống sân bay Liên Khương (đã trình bày ở mục giao thông tỉnh Tuyên Đức).
Ngoài các đường giao thông nói trên, ở ngay thị xã Đà Lạt có một hệ thống đường đá rất tốt, hoặc tráng nhựa hoặc trải đá xanh.
TỔ CHÚC HÀNH CHÁNH
Đà Lạt là một thị xã. Đứng đầu là vị Thị trưởng.
Để giúp ý kiến cho Thị trưởng có Hội đồng thành phố dân cử gồm 9 hội viên và nhiệm kỳ là hai năm.
Đà Lạt được chia làm 10 khu phố, mỗi khu phố có một Hội đồng khu phố dân cử. Đứng đầu Hội đồng khu phố là một Chủ tịch, giúp việc Chủ tịch này có một thư ký và một thủ quỷ. Ba vị này họp thành Hội đồng Hành chính khu phố.
Các Hội đồng Khu phố với nhiệm vụ quản trị địa hạt khu phố đều đặt trực thuộc thị trưởng.
Mỗi khu phố chia làm nhiều ấp Đời Mới. Tổng cộng 10 khu phố Đà Lạt gồm 42 ấp Đời Mới.
Dưới quyền Ông Thị trưởng, ngoài các Hội Đồng khu phố lại có Ty sở chuyên môn giúp việc. Bên cạnh các Ty sở này, còn có các cơ quan cấp phần hoặc Quốc gia hoạt động cho toàn miền Thượng Cao Nguyên hoặc cho toàn quốc như Trung tâm Thực nghiệm Lâm ảnh, Khu Thủy Lâm, Sở Hỏa xa, đài Phát thanh, trung tâm nguyên tử lực cuộc, Nha quản đốc thủy điện Đa Nhim, Nga địa Dư, Viện Paster, Viện đại Học Đà Lạt, Trường Võ bị Quốc Gia, trường Đại học Chiến tranh chính trị, trường chỉ huy và tham mưu...
Về lãnh vực quân sự, Bộ chỉ huy tiểu khu Tuyên Đức đóng ở Đà Lạt. Lại có một tiểu đoàn Địa phương quân phối hợp với các lực lượng bán quân sự để bảo vệ thị xã, như nghĩa quân, nhân dân tự vệ, cảnh sát...
PHONG TỤC
Đà Lạt là một thị xã của người Kinh ở giữa miền Thượng, có nhiều người ngoại quốc lên trú ngụ.
Người Kinh toàn là những người di dân lên đây lập nghiệp sinh sống ở trong ấp đa số là người cùng địa phương.
Người Thượng gồm toàn là người Lạt và một ít người Chill thích ứng dễ dàng với đời sống mới do người Kinh mang lại.
Người ngoại quốc phần đông là những nhà giáo dục, nhà tu hành, những người đi nghỉ mát hoặc những học sinh lớn ở nội trú đã mang lại cho Thị xã một sắc thái Âu Tây qua lề lối ăn mặc và kiến trúc dinh thự.
Tất cả đều sinh sống hòa hợp tạo nên một không khí êm đềm và có một điểm đặc biểu là rất mộ đạo: các Thánh đường, Tu viện, chùa chiền, đền đài đều được xây cất theo một kiến trúc riêng biệt khiến cho du khách mỗi khi rời Đà Lạt đều mang theo lòng cảm mến và nhiều kỷ niệm đẹp.
Về phật giáo ở Đà Lạt có 4 ngôi chùa:
Chùa Linh Sơn, chùa Linh Quang, chùa Linh Phong và chùa Viên Quang.
Thiên chúa giáo có các cơ sở tôn giáo sau:
Thánh đường Saint Nicolas, Giáo Hoàng chủng viện, tu viện Đa Minh, Tu viện Lazristen dòng La San, Nhà dòng Chúa Cứu Thế, Domaine de Marie, Dòng Franciscain và dòng Châu Sơn.
Đạo Tin lành cũng có tại Đà Lạt 3 cơ sở:
Tòa Thánh Tin Lành, Nhà Chung Hội Gia Tô Giáo Pháp và Nhà thờ Cơ Đốc Phục Lâm Pháp.
Cao Đài cũng có hai thánh thất:
Thánh thất Đa Phước theo về Tây Ninh và Thánh Thất Đa Thành theo về Bến Tre.
KINH TẾ
Nền kinh tế ở Đà Lạt hiện thời phát triển nhất về canh nông, thứ đến kỹ nghệ.
Canh nông: Với một diện tích toàn Thị xã 69 cây số vuông, Đà Lạt có một diện tích khả dĩ khai thác về canh nông lên tới 10.944 mẫu tây, trong số đó 9.464 mẫu đã được khai thác.
Đà Lạt không có ruộng trồng lúa, đất đai khai thác đều trồng rau và hoa quả. Khí hậu ở đây rất tốt, việc trồng rau và cây ăn quả có những kết quả rất khả quan. Đà Lạt sản xuất hàng năm vào khoảng trên 15.000 tấn rau, cung cấp về Saigon và cho cả toàn quốc nữa.
Các lạo rau chính được trồng ở Đà Lạt là sa - lát, cải hoa (sú lơ), cà rốt, crét - xông, hành, su hào, khoai tây, tỏi tây, artichaut ...
Ngoài các loại rau, các nhà trồng tỉa Đà Lạt còn trồng đủ các loại hoa rất đẹp nhờ ở khí hậu giốg khí hậu miền ôn đới: Hồng, Glaieul, Lys, Tulipe... Trong rừng Đà Lạt lại có cc loại Lan rất được ưa chuộng.
Về cây ăn tráiĐà Lạt có mận, hồng, đào, bơ ... Mận Trại Hầm nổi iếng ngon và được gửi bán v Saigon rất nhiều.
Dâu Tây cũng được trồng rất nhiều ở khu phố IX nhất là ở hai ấp Hà Đông và Nghệ Tĩnh.
Mục súc:
Tuy với diện tích nhỏ hẹp nhưng hiện thời Đà Lạt cũng có bốn trại chăn nuôi: Các trại Cam Ly, La Savoisinenne, Datria và Touloux.
Tổng số súc vật của 4 trại trên và của dân chúng nuôi lẻ tẻ tại các ấp ước lượng vào khoảng:
1.300 bò
200 trâu
7.5400 lợn
20.000 gà vịt
Hiện nay các cơ quan nông tín và Ty Thú Y Dalat đang khuyến khích và giúp đỡ dân chúng trong việc nuôi heo bắp và thành lập các trại gà: hiện thời những trại gà Scala, văn bia, Phan Xứng đang thu lợi được nhiều kết quả.
Khoáng sản:
Đà Lạt có hầm đá và hầm cao Lanh dùng làm đồ gốm.
Kỹ nghệ: Nhờ có sự trồng trọt dâu tây và mận nhiều, trong dân chúng có nghề làm mứt mận và rượu dâu. Hiện nay có người đang nghiên cứu làm đồ hộp trái cây Đà Lạt.
Ở khu phố X, tại Trại Mát có xưởng làm đồ sứ, nguyên liệu là Cao Lanh.
Đà Lạt có hai lò chế hóa nhựa thông, 8 xưởng cưa lớn, lại có nhà máy nước đá.
Về tiểu công nghệ có các nghề dệt vải, làm đồ gỗ, làm đồ kỷ niệm cho du khách ...
Thương mại:
- Đà Lạt hàng năm bán ra:
10.550 tấn rau
9.400 thước khối gỗ thông
200 tấn đất sét trắng
2.000 tấn trà
15 tấn da súc vật
- Đà Lạt phải mua:
Thực phẩm nhất là gạo: (90.000 tấn gạo / năm)
Phân bón
Nguyên liệu xây cất
Các đồ thực dụng hàng ngày.
Chợ Đà Lạt là một ngôi chợ lớn, cao 2 tầng, độc nhất ở Việt Nam, kiến trúc rất đẹp và tiện lợi cho người mua bán.
XÃ HỘI
Vấn đề xã hội tại Đà Lạt khá phát triển về ba phuơng diện giáo dục, y tế và cứu tế.
Giáo dục: Nền giáo dục khá mở mang, có đủ lớp từ Sơ học đến Đại học.
Về Sơ học, hiện có 4 trường công lập với 11 lớp.
Về Tiểu học, có 16 trường công lập tổng cộng 141 lớp. Tổng số nam nữ học sinh của các trường này lên tới vào khoảng 8.000 em.
Bên cạnh các trường công lập lại có 9 trường tư thục sơ cấp với 26 lớp, 8 trường tư thục Tiểu học với 65 lớp, tổng số nam nữ học sinh các trường này ước lượng vào khoảng 4.000 em.
Về Trung học, có 2 trường công lập, một trường nam và một trường nữ, tổng cộng vào khoảng 3.000 học sinh.
Ngoài ra lại có 8 trường Trung học tư thục với số nam nữ học sinh vào khoảng 5.100 em.
đặc biệt ở Đà Lạt lại có một trường kỹ thuật với 90 học sinh.
Chúng tôi tưởng cần nói thêm, ngoài các trường trên, Đà Lạt lại có một số các trường đang dạy chương trình Pháp với một số học sinh vào khoảng 1.500 em.
Đà Lạt là nơi duy nhất tại miền Thượng có Viện Đại Học với các phân khoa Sư Phạm, Văn Khoa, Chính trị, Kinh tế ...
Về Quân sự ở đây cũng có ba trường cấp đại học dành để huấn luyện các Sĩ quan ưu tú Quân sự (Trường Võ bị quốc gia, Trường Đại học Chiến tranh Chính trị, Trường Chỉ huy và Tham mưu)
Y tế: Đà Lạt có một bệnh viện có đầy đủ nhà hộ sinh, nhà dưỡng bệnh, phòng giải phẫu.
Tại các khu phố đều có trạm cứu thương do cán bộ Y tế hoặc Ủy viên Y tế ấp tân sinh trông nom.
Viện Pasteur Đà Lạt, thành lập năm 1936, được trang bị dụng cụ tối tân đã giúp ích rất nhiều cho dân chúng miền Cao nguyên.
Cứu tế: Nhiều cơ sở xã hội công cộng đã được thiết lập tại Đà Lạt:
- 2 khu xã hội với 2 ký nhi viện tiếp nhận hàng ngày trên 100 gia đình nghèo.
- 1 quán cơm xã hội bán giá rẻ cho đồng bào mọi giới.
- 1 lữ quán thanh niên và lao động trang bị gần 200 giường cá nhân, có phòng đọc sách và phòng giải trí rất thuận tiện cho các đoàn thể lên Đà Lạt du lịch và tạm trú.
- 1 thao trường dành cho thanh niên đến luyện tập về thể thao, thể dục miễn phí.
Ngoài các cơ sở trên, Đà Lạt còn có nhiều cơ sở của những tổ chức từ thiện:
- Hội từ thiện phật học.
- Chi nhánh hội Hội Hồng Thập Tự.
- Hội Từ thiện giúp đỡ những người phong hủi.
- Những tổ chức từ thiện Ấu trỉ viên của các Hội Đoàn Thiên Chúa giáo,v.v....
THẮNG CẢNH VÀ DU LỊCH
Đà Lạt là một Thị xã xinh đẹp, có nhiều thắng cảnh mơ mộng và kiến trúc đặc biệt như sau:
- Hồ Than Thở, Hồ Mê Linh, Hồ Xuân Hương
- Thác Cam Ly, Suối Vàng
- Rừng Ái Ân, ngọn Robin
- Chùa Linh Sơn, Linh Phong
- Nhà Thờ Đức Bà, Giáo Hoàng chủng viện
- Lăng Quận Công Long Mỹ
- Trung tâm Nguyên tử lực cuộc
- Trường Võ bị Quốc gia, v.v...
Đối với du khách, Đà Lạt đẹp nhất vào mùa hoa đào nở. Lúc đó trời nắng dịu đẹp, không khí trong lành, thời tiết lành lạnh, trăm hoa thi nhau đua nở muôn mùa khiến cho con người hòa hợp với thiên nhiên dễ dàng và cảm thấy niềm yêu đời thanh thản.
Rất nhiều văn nhân, nghệ sĩ đã ca tụng Đà Lạt bằng lời văn ý thơ, tiếng nhạc và nét vẽ như một nơi thần tiên.
***
Thật vậy với những phong cảnh thơ mộng hùng vĩ, với khí hậu mát lạnh trong lành, với những trường học khang trang và tín nhiệm, Đà Lạt xứng đáng là nơi du lịch, nghỉ ngơi hoặc học hành tốt nhất ở Việt Nam và cũng xứng đáng là trung tâm du lịch nổi tiếng ở Á Châu này.
DALAT: Dat Aliis Lactitiam Allis Temprriem
Giúp cho người này nguồn vui, kẻ khác thời tiết tốt.
ĐƯỜNG ĐI DALAT:
1. Đường bộ: Đà Lạt cách Saigon 250 km đường thẳng. Còn đi vòng đường xe theo triền núi thì cách 305 km nếu đi qua Blao, và cách 375 km nếu đi qua Phan Thiết.
Xe hơi đi Blao thì phải qua Biên Hòa, La Ngà, lên đèo Blao (cao 850m) rồi đi bên thác nước Bobla (cao 3m) mới tới Di Linh (225km). Từ Di Linh tới Đà Lạt còn 80 km và còn những thác Pongour, Gougah, Liên Khương.
Xe đi khỏi tỉnh lỵ Biên Hòa, không khí đã thấy mát mẻ, dễ chịu, nhờ đi ven rừng, có khi vào giữa rừng. Mắt du khách sẽ đuổi theo những dãy cây cao su trồng theo hàng lối ngay thẳng với bóng mát tối dần, để xa xa thấp thoáng lộ ra những vuông sáng của hai bên đồn điền, mõi vuông chỉ còn bằng một tờ giấy. Có khi xe đi êm, nghe được cả tiếng hót của chim chóc trên cành cây cao. Thỉnh thoảng một vài đồng bào Thượng đi rừng về, vác mấy cây nứa trên vai với dao guắm theo đường xe, dưới ánh nắng chói chang mũi hếch lên mặt và da thịt đen bóng như vừa đi chữa một đám cháy về. Cũng có khi gặp một vài thiếu thụ vú vê thuỗn thện đi bên đường.
Phong cảnh đường Blao đẹp nhờ qua nhiều quảng rừng có cây cối khác nhau. Khi thì chuối rừng mọc hai bên đường theo triền núi lên vút tận trên. Khi thì lá tre nứa. Khi thì lại cả một ngọn đồi vừa đốt cháy đen để sửa soạn phá ra trồng trọt. Khi thì lại là những đồi trà mọc đều tăm tắp; và những ngôi nhà gỗ xinh xinh dưới ánh nắng và với những hàng rào quét vôi trắng ở bên đường.
Nơi này có các đồng bào di cư đến ở bên dọc đường từ Biên Hòa trở lên nên nhà cửa và đường phố buôn bán thấy vẻ tấp nập. Nhất là ở Gia Kiệm, Hố Nai với các tiệm làm đồ gốm, nhà máy dệt, nhà thờ, hàng quán cùng các thửa vườn ... du khách tưởng tượng sức phấn đấu và chịu đựng của con người đã thật là vĩ đại.
Xe đi lên dốc ròi lại xuống, lại nhìn thấy một đoạn dốc nữa để đi lên. Có khi phải lái ngoằn ngoèo theo hình chữ chi. Có khi vừa leo dốc lại phải lái quặt xe về một bên, người ngồi trên xe phải nghiên mình đi như đu với cảnh vật.
Thật là lý thú.
Nếu du khách là một họa sĩ, thích màu sắc, du khách sẽ được thấy vệt đường tráng nhựa dưới ánh mặt trời loang loáng bóng cây, bên này là muôn ngàn màu xanh của các thứ lá với một mạnh đất đỏ như sơn son hay vàng như nghệ, ở cánh đồi mà người ta vạt ra để làm đường, và bên kia là các cành cây, các cánh hoa rừng xanh xanh, tím tím, đỏ đỏ, trắng trắng trên những nền lá rung rinh.
Du khách chỉ những muốn dừng lại, đi trong một phút, để ghi tạc cảnh đẹp ấy vào lòng.
Và nếu du khách ấy là một nhạc sĩ, thích những tiếng nhạc thiên nhiên, du khách sẽ được nghe những tiếng suối nước đều đều chảy ở xa xa với tiếng gió rừng cành làm nhạc đệm cho tiếng chim hót Lanh lãnh và vang vang trong bầu trời trong vắt.
Du khách sẽ muốn đường còn thật dài như thế mãi mà không thích cho thoáng một cái đã đến Đà Lạt rồi.
Nếu xe hơi đi từ Phan Thiết, xe phải qua An Lộc, Xuân Lộc là rừng cao su, để đến Phan Thiết (198 km). Xe sẽ phải qua một rừng lá gồi hết sức lớn, có những chú khỉ leo trên cành cây cao gọi nhau chí chóe, rồi phải lên dốc đèo Yabach (cao 800m), đèo Halon (cao 1.030m), đèo Daltroun (cao 1.200m) để đến Di Linh (295km).
Du khách sẽ thấy cảnh hoang vu của rừng thẳm, và một vài nơi thấy ghê rợn nếu nhằm buổi chiều, trời sắp tối.
Ngoài hai đường ấy, từ Saigon đi, còn có thể đi từ Nha Trang qua Tháp Chàm đến Đà Lạt hay từ Phan Rang đi Krongpha rồi lên đèo Bellevue ngắm cảnh biển rộng nước xanh và theo đường Fimnom về Đà Lạt.
2. Đường hỏa xa:
Đường xe lửa này bắt đầu đặt đường sắt năm 1915 và khởi chạy năm 1916. Nhưng không đi thẳng tới nơi được ngay. Năm 1917 mới làm xong đoạn đường từ Tháp Chàm đến Krongpha. Và năm 1922 kỹ sư Porte của Công ty thầu khoán Á Châu mới được ủy việc nghiên cứu làm đường xe lửa có răng khế nối liền Krongpha đến Đà Lạt.
Đoạn Krongpha đến Bellevue (10 km) làm xong năm 1928.
Đoạn Bellevue đến Dran (5 km) làm xong năm 1929.
Đoạn Arbre Broyé (6 km) làm xong năm 1950.
Như thế nghĩa là phải 17 năm tất cả, mới hoàn thành đường xe lửa dài 84 km.
Sở dĩ mất nhiều công và ngày giờ như vậy là vì xe lửa phải leo dốc, có đoạn từ Krongpha đến Bellevue dài 8 km phải leo từ 180m lên cao tới 1.000m nghĩa là dốc 12%. Rồi có đoạn phải xây cầu để thoát nuớc ở trên thì ở dưới mới chạy được. Có đoạn phải đục hầm rất nhiều. Hầm dài nhất là ở Broyé dài tới 650m.
Vì thế xe lửa Đà Lạt chỉ có thể kéo được 65 tấn khi lên và 55 tấn khi xuống là nhiều.
Đi Đà Lạt bằng xe lửa, du khách sẽ được thấy hai bên:
Từ Tháp Chàm đến Đông Mé (km14) là ruộng lúa, ngô, thuốc.
Từ Đông Mé đến Krongpha (km 41) là cánh đồng khô cỏ cháy.
Từ Krongpha đến Bellevue (km 51) có 8 km đường răng khế là rừng thông.
Từ Bellevue đến Dran (km 56) là vườn rau.
Từ Dran đến Bosquet (km 72) là đồn điền trồng trà.
3. Đường trong thị xã:
Vòng trong của dãy núi là đồi núi, cũng cao từ 1.400 thước trở lên. Người ta bạt núi để làm đường, ngoằn ngoèo theo sườn núi, đương cao xuống thấp, đương thấp lên cao, thoáng một cái vườn rau đang ở tay trái đã sang tay phải, và thoáng một cái, nơi mình định đến đương gần lại xa, để rồi mới lại gần trở lại.
Cái vui của người du khách từ miền xuôi lên là cái vui loạn mắt ấy. Rõ ràng vừa nhận ra đường mình phải đến kia rồi, mà đi tới một thôi thì lại không thấy nó đâu nữa. Rồi là rừng, rồi là biệt htự, rồi lại đường riêng vào đồn điền, rồi là đường có bực đá đi xuống.
Thỉnh thoảng lắm mới gặp một con đường bằng phẳng, còn thì không dốc ngược lại dốc xuôi. Những nhà ở khu phố buôn bán làm kích vách nhau, cũng theo dốc ấy mà dạt lên, trong thì bằng phẳng còn ngoài hè thì chênh chênh đi. Người đi bộ trên vỉa hè, phải bấm giày cho chặt, phải ưỡn ngực ra khi xuống dốc và phải khom người lại khi lên dốc kẻo vô ý mà ngã thì thật là đáng ngại.
Mỗi ngày phải làm vài cuộc tập thể thao như vậy cũng nóng người ra và thấy đời vui hơn.
Một điều khiến du khách phải chú ý thấy ngay là người Đà Lạt đứng đắn và chỉnh tề trong những bộ áo rét và có vẻ tươi tốt hồng hào vì nắng hanh cũng như cây cối hoa lá xanh tươi nhờ khí hậu tốt lành.
(trích đặc san xây dựng mới số 3)
KHÍ HẬU ĐÀ LẠT
Nhờ ở cao độ khí hậu Đà Lạt rất ôn hòa. Vừa đặt chân đến Đà Lạt du khách cảm thấy ngay trong mình nhẹ nhàng và khỏe khoắn do tiết trời mát mẻ dìu dịu suốt ngày.
Nhiệt độ Đà Lạt không sai biệt với nhau nhiều:
Trung bình hàng năm: 18033
Trung bình về mùa hè: 190
Trung bình về mùa đông: 1604
Đặc tính khí hậu Đà Lạt có hai mùa riêng biệt và nối tiếp nhau:
a. Mùa nắng:
Bắt đầu từ tháng 11 d.l. đến đầu tháng 5 d.l.: trời nắng đẹp. Mầu trời xanh trong. Nhiệt độ trung bình: 180. Hoa mai nở trên bờ đường, khắp mọi nơi vào gần dịp lễ Giáng Sinh và Tết Nguyên Đán...
Vào mùa đó, về đêm khuya, nhiệt độ xuống chỉ đến khoảng 50 mà thôi.
Về ban ngày, mặc quần áo nỉ hay len nhẹ cũng đủ. Ít khi phải dùng đến măng - tô trừ ra những người yếu chịu rét.
b. Mùa mưa:
Từ tháng 5 d.l. tới tháng 11 d.l. thường có những trận mưa bão. Nhưng, về mùa này, phần nhiều buổi sáng trời cũng đẹp và mát mẻ. Nhiệt độ trung bình lên tới 200. Nhiệt độ tối thiểu vào khoảng 80 và 110 trong những tháng nóng nhất.
Mùa khô dễ chịu hơn mùa mưa. Nhưng Dalat cũng là nơi nghỉ mát rất tốt, ngay cả về mùa mưa nữa.
Độ ẩm của Dalat bao giờ cũng rất thấp. Trong một năm có ước chừng 150 ngày mưa. Tháng 8, 9 và tháng 10 d.l. có chừng 60 ngày mưa.
Trung bình mỗi năm mưa được 1.692mm và có 150 ngày mưa.
Áp lực không khí trung bình là 650mm.
Cao nguyên Langbian là một nơi rất thoáng đãng: gió Tây Nam thổi nhiều từ tháng 5 đến tháng 10 d.l. và gió Đông Bắc thổi nhiều từ tháng 11 đến tháng 2 d.l.
Không bao giờ có bão dữ dội như ở miền duyên hải.
Trời nóng, sáng đặc biệt. Buổi sáng sớm thường có sương mù, nhưng không được lâu. Mặt trời lên là tan hết sương.
Theo những sự nhận xét trên thì Dalat là một nơi khí hậu tốt nhất ở Việt Nam và có lẽ ở Đông Nam Á.
Nhờ tiết trời lành, không khí trong trẻo, nhẹ nhàng, Dalat là nơi nghỉ ngơi rất thích hợp cho:
1. Trẻ em: Dalat là nơi nghỉ rất tốt cho trẻ em. Không nơi nào chúng lại mau lớn hơn ở đây. Trẻ xanh xao, chậm lớn hay mới khỏi bệnh (sốt ban, thương hàn, v.v...) mau lại sức. Số hồng huyết cầu chóng tăng lên trông thấy.
2. Những người làm việc lao tâm hay lao lực
3. Những người đau thần kinh.
4. Những người thiếu máu và những người mới khỏi ốm vì những bệnh truyền độc (maladies infectieuses) hay bệnh phải giải phẩu, kể cả những người mắc lao xương sống (mal de Pott), hoặc bị gẫy xương sống hay gẫy tay, chân, mà phải bó thạch cao.
Ở Dalat không có bệnh sốt rét cơn (paludisme). Bệnh này thường thấy ở những miền cao, vào khoảng từ 800 đến 1.000m. Những bệnh nhân sốt rét cơn thấy ở Dalat là những bệnh nhân ở nơi khác đến.
(Trích trong cuốn Đà Lạt do Nha Quốc gia Du lịch phát hành)
THẮNG CẢNH ĐÀ LẠT
Ngoài khí hậu ôn hòa, Đà Lạt lại hấp dẫn du khách gần xa, nhờ những thắng cảnh thiên nhiên, nhân tạo hùng vĩ thơ mộng. Lại nữa trong khoảng những năm qua, Đà Lạt càng tô điểm thêm những nét mỹ quan.
Nhà cửa rẻ tiền xây dựng san sát nơi nơi theo kiểu mẫu chung, sạch sẽ và đầy ánh sáng. Đường sá được trải nhựa, rải đá thay thế những con đường mòn khúc khỉu, chật hẹp.
Thác Cam Ly, Suối Vàng, Hồ Than Thở với cảnh trí sẵn có được tu sửa thêm làm lưu luyến du khách gần xa đến viếng Đà Lạt, du khách có thể ngoạn cảnh.
HỒ THAN THỞ
Nằm về phía Đông Bắc thành phố (khoảng 5 cây số) trước kia là một vùng hoang vu. Giang sơn của những loài thảo mộc, cầm thú, mà chỉ một làn gió nhẹ, xao động lau lách vọng lên như tiếng thở dài chạy trên mặt nước; do đó hồ mang tên là “HỒ THAN THỞ”.
Ngày nay, Hồ Than Thở được thi vị hóa bằng một sự tích bi hùng kết hợp với lòng ái quốc của đôi trai tài gái sắc nước Việt qua những dòng chân thành của một văn nhân ghi lại như sau:
“Năm ấy, một ngày cuối thu 1788, một làn gió hùng mạnh quật cường đang làm nhân dân Việt Nam sôi máu trong một ý chí chống ngoại xâm: Khắp trời Nam, tiếng loa rộn rã thúc giục các chàng trai tráng hiên ngang nhập ngũ dưới bóng cờ Tây Sơn để tiến ra Bắc hà quét sạch quân nhà Thanh đang lăm le mượn cờ Phù Lê để xâm chiếm đất nước Việt Nam yêu quý.
Lời hịch chiêu mộ đã đến tai Hoàng Tùng, chàng trai đất Viễn Hương (thuộc tỉnh Khánh Hòa, nay là Lâm Viên tức Đà Lạt). Hoàng Tùng vốn dòng dõi một gianh gia thế phiệt, cha ông đã không chịu nỗi chế độ hà khắc của quân Minh nên đã bồng bế nhau tìm đường sống một cách Tự do thong thả. Gia đình đó di cư đi mãi, lần hồi tới nơi này thấy cảnh hoang vu tịch mịch non xanh nước biếc, thật hợp với lòng phống khoáng, giang hồ của mình, bèn chọn làm nơi di dưỡng. Tên “Viễn Hương” đã được đặt ra để ghi hoàn cảnh mới cho con cháu sau này nhớ việc hồi hương.
Chàng trai họ Hoàng, trước tiếng gọi của núi sông, đã không ngần ngại nhưng trước khi ra đi chàng hẹn gặp Mai Nương để biết quan niệm, của người yêu trong cuộc đi chắc có lẽ không trở về của mình. Mai Nương là con gái của một vị Thổ Ty Sơn cước. Vì trước, Hoàng Tùng cứu thoát một tai nạn nên đã cảm phục và nhận lời gá nghĩa. Đôi bạn đã định xuân sang, khi hoa Anh đào khoe sắc thắm thì sẽ xin gia đình cử hành hôn lễ. Nơi hẹn của Hoàng Tùng được định trong rừng kỳ ngộ, trên bồ suối dịu hiền, sau khi nói qua cho Mai Nương biết ý định của mình. Hoàng Tùng đau đớn ngồi lặng. Bên nước, bên tình cảnh éo le làm người quyến luyến.
Sự trầm ngâm của chàng làm Mai Nương hiểu lầm, nàng tưởng Hoàng Tùng nghi ngờ lòng trung kiên của nàng nên ngần ngại. Dịu dàng, nàng thưa xin cho đến hôm sau, cũng giờ này, tại đây, nàng sẽ có quà tiễn người anh hùng.
Hôm sau, trước giờ hẹn, Mai Nương một mình đến bên dòng suối để than thở. Muốn cho Hoàng Tùng hiểu lòng nàng để dứt hết bịn rịn, băn khoăn, nàng thấy chỉ còn cái chết để Hoàng Tùng yên tâm Mai Nương của chàng sẽ chỉ là vợ của Hoàng Tùng dù sau này chàng vinh quang trở về hay đã ngã trên chiến trường xa thẳm...Nghĩ vậy, nàng khóc lóc hồi lâu, gọi tên Hoàng Tùng mấy lượt và nhắm mắt nhảy xuống nước.
Vài phút sau Hoàng Tùng đến chỗ hẹn. Lạ thay chàng ngơ ngác không tìm ra chỗ cũ. Thì ra cảm lòng người liệt nữ chim muông, cây cỏ trong rừng đều khóc, nước chảy xuống nơi Mai Nương tuẫn tiết làm thành một giếng sâu, đồng thời hai bên bờ suối bít lại, nơi Mai Nương gửi mình biến thành một hồ rộng rãi im lặng bên rừng Kỳ Ngộ.
Sau khi xác nàng nổi lên, dân làng hiểu chuyện, bèn cảm động đặt tên là Hồ Than Thở, đề ghi lại những phút cuối cùng của người sơn nữ đã hy sinh cuộc đời cho người yêu yên tâm làm tròn nghĩa vụ”.
Một thi sĩ khác lại đã ca tụng bằng một lời thơ lối văn nhẹ nhàng bóng bẩy như sau:
Nhớ thuở ấy lòng đau khôn xiết;
Ngó non sông dân Việt lầm than...
Cảnh bầy: nước loạn, nhà tan,
Giặc Thanh dầy xéo tan hoang cõi bờ,
Rửa hận nước phất cờ vung kiếm,
Đất anh hùng họ Nguyễn Quang Trung,
Ra tay ngang dọc vẫy vùng,
Thề: đâu chịu đội trời chung phen này?
Hịch chiêu hiền đó đây rộn rịch,
Trống mộ quân tập kích giặc thù,
Một phen giành lại cõi bờ,
Một phen dựng lại cơ đồ Nhà Nam.
Hoàng Tùng vốn là trang anh tuấn
Quyết ra đi rửa hận non sông,
Tấm thân coi tựa lông hồng,
Mong sau một tiếng anh hùng còn ghi...
Thảm một nỗi biệt ly cắc cớ:
Cùng Mai Nương đâu nỡ chia tay.
Ra đi ngàn dặm nước, mây,
Biết đâu còn lại có ngày thấy nhau...
Chàng tần ngần lòng đau khôn tả,
Nàng héo hon tấc dạ khôn khuây,
Hết nhìn nhau lại cầm tay,
Hỡi “khuông thiêng” thấu nỗi này cho chăng?
Nàng thổn thức hẹn chàng gặp lại,
Suối dịu hiền sẽ lại cùng nhau
Chân tơ kẽ tóc gối đầu
Bên rừng “Kỳ Ngộ” đôi câu tạ từ...
Nào có ngờ xót xa nỗi ấy,
Luống e chàng áy náy không nguôi
Chiến trường biên ải xa xuôi
Chữ trinh thiếp có vẹn mười cho không?
Chàng canh cánh bên lòng thắc mắc
Thà nén tâm gạt phắt thường tình
Cho chàng phỉ chí bình sinh
Diệt thù thỏa nguyện tâm tình nước non.
Bên dòng nước Mai Nương lén bước,
Từ tinh sương rảo bước bóng chàng
Đoái nhìn rừng thẳm mênh mang
Thảm nghe dòng suối thở than não nề.
Rồi một phút như mê như tỉnh
Gọi Hoàng Tùng Lanh lãnh xa đưa
Gọi rồi đôi mắt lệ mờ
Tấm thân gieo nặng xuống bờ nước sâu...
Bỗng gió thảm mưa sầu dồn dập,
Khắp núi đồi, chim chóc muông than
Hoa rừng tràn lệ chứa chan
Đất trời như cũng thảm thương não tình.
Chàng thất thiểu đinh ninh lần tới,
Tìm tình nương chân mỏi mắt mờ...
Bốn bên vắng lặng như tờ,
Mênh mông Hồ rộng nước lờ đờ trôi ...
Đôi hàng lệ Mai Nương ơi hỡi
Vì đâu mà chín suối xa chơi
Âm dương cách biệt đôi nơi
Lệ sầu như nước xanh trôi lững lờ...
Khôn thiêng Em hãy đợi chờ ...
Mặt hồ Than Thở bây giờ là đây ...
Mai Nương nàng hỡi có hay ...
HỒ MÊ LINH (St. Benoit)
Dải nước trong xanh của Hồ Than Thở vượt qua đập nước nhân tạo, trầm lặng chảy theo một dòng suối nhỏ đổ về Hồ Mê Linh (St. Benoit). Cảnh trí khá đẹp, lại điểm những chiếc biệt thự xinh xinh cạnh những cơ sở quân sự và Trường Đại Học quân sự.
Du khách có thể dạo quanh hồ bằng một con đường nhỏ rải đá hoa.
HỒ LỚN DALAT
Chu vi rộng gần 5.000 thước, nằm ngay ở trung tâm thành phố. Đóng khung giữa những láng đồi cây cỏ xanh tươi, tựa như mãnh trăng tròn thượng tuần, mặt nước hồ khi phủ màn sương trắng đục, lúc trong suốt như đài gương tạo thành một thắng cảnh kỳ quan của đô thị.
Hàng năm các công tác sửa sang được xúc tiến tu bổ nên vẻ đẹp của hồ càng tăng lên mãi. Con đường quanh hồ được tráng nhựa, có cây vun xén mỹ thuật. Hai hoa viên công cộng: Tao Đàn, Bích Câu được tạo lập, dùng làm chỗ dừng chân, nghỉ mát cho du khách. Ngoài cái thú ngắm cảnh, du khách lại còn có thể tìm thấy những phút giải trí, thể thao thú vị như lái thuyền buồn “Pédalo” - “Périssoire”, hoặc biến thành ngư ông trong vài tiếng đồng hồ.
Quanh hồ được trang bị một hệ thống ánh sáng Néon, hòa hợp với màu sắc của muôn ngàn sông nước, cảnh trí ban đêm càng thêm huyền ảo, đài trang.
THÁC CAM LY
Cách thành phố hai cây số về phía Nam. Nước từ Hồ Lớn chảy về đổ trên những tảng sa thạch to lớn, giữa cảnh trí thanh tịnh và nên thơ.
Dòng nước trắng xóa, như dải lụa bạch trắng vóc ẩn hiện dưới bóng cây xanh, tô đậm một bức tranh thủy mặc ưa nhìn.
Hơn nữa vùng Cam Ly ngày nay được tu bổ rất nhiều, cảnh thiên nhiên mang thêm những nét thẩm mỹ nhân tạo: một hai chiếc cầu gỗ duyên dáng vắt thành nơi trò chuyện, hàn huyên thích hợp cho khách nhàn du.
SUỐI VÀNG
Cách xa đô thị khoảng 20 cây số về hướng Bắc, phong cảnh không kém phần ngoạn mục, nhất là con đường từ thành phố về Suối Vàng uốn khúc theo núi đồi đầy thông xanh, cỏ dại.
Ngoạn cảnh Suối Vàng, du khách lại có dịp viếng thăm nhà máy thủy điện Ankroet, cung cấp điện lực, ánh sáng cho thành phố. Công việc xây cất nhà máy điện được thực hiện bằng hai giai đoạn: Công tác đầu tiên khởi thủy từ năm 1945, công tác thứ nhì hoàn thành năm 1952.
Ngoài ra, Dalat có những thắng cảnh và kiến trúc khác phô diễn một nét đẹp riêng biệt như:
- Rừng Ái Ân
- Chùa Linh Sơn
- Chùa Linh Phong
- Nhà Thờ Dalat
- Trường Võ bị Quốc gia
- Lăng Nguyễn Hữu Hào
- Trung tâm Nguyên tử lực cuộc... cùng nhiều cơ sở tôn giáo, văn hóa khác.
Xa hơn nữa, trên đường về Saigon, du khách có thể dừng chân hướng cảnh tại các thác nước hùng vĩ thuộc tỉnh Tuyên Đức, thác Da-tan-la, Prenn, Liên Khàng,Gougah, Pongour ... để rồi trước khi từ giã Dalat, vẫn còn lưu luyến giữ lại một kỷ niệm êm đềm xinh đẹp qua bài thơ của Hàn Mặc Tử.
ĐÀ LẠT - TRĂNG MỜ
Đây phút thiêng liêng đã khởi đầu
Trời mơ trong cảnh thực huyền mơ
Trăng sao đắm đuối trong sương nhạt
Như đón từ xa một ý thơ.
Ai hãy làm thinh chớ nói nhiều
Để nghe dưới đáy nước hồ reo
Để nghe tơ liễu run trong gió
Và để xem trời giảng nghĩa yêu.
Hàng thông lấp loáng đứng trong im
Cành lá in như đã lắng chìm
Hư thực làm sao phân biệt được
Sông Ngân Hà nổi giữa màn đêm.
Cả trời say nhuộm một mầu trăng
Vả cả lòng tôi chẳng nói rằng
Không một tiếng gì nghe động chạm
Dẫu là tiếng vỡ của sao băng.
(Trích trong cuốn DALAT - PHẠM GIA TRIẾP)
DALAT - QUÊ HƯƠNG CỦA LAN
Với cao độ 1.500 thước, Dalat có khí hậu trong lành và êm dịu quanh năm. Trong thời gian 12 tháng một năm thì mùa mưa chiếm hơn 7 tháng, còn lại là mùa nắng.
Mặc dầu mưa hay nắng đã được thể hiện theo chu kỳ, mỗi này vẫn có 4 mùa rõ rệt: sáng là thời tiết của mùa xuân, trưa là mùa hạ, chiều là mùa thu và tối là mùa đông. Khí hậu và thời tiết lý tưởng đó tạo cho con người thêm sức khỏe yêu đời và nẩy thêm nhiều kỳ hoa dị thảo, khiến cho cảnh sắc càng thêm hấp dẫn và thơ mộng. Với yếu tố thiên nhiên được tạo hóa dành sẵn, Dalat không những là sinh quán của những thiếu nữ có má hồng và cặp mắt long Lanh quyến rũ, mà còn là xứ sở của hoa Anh đào tha thước và quê hương của nhiều hoa Lan bất hủ.
Theo các nhà sưu tầm về Lan cho biết thì ở trên thế giới có hàng vạn loài Lan khác nhau, riêng tại cao nguyên Trung phần có hơn 2.000 loại trong đó đa số ở Dalat và Tuyên Đức.
Lan có ở Dalat và Tuyên Đức thuộc cả 3 loại: Thổ Lan, Thạch Lan và Phong Lan.
Thổ Lan gọi là Lan đất, mọc trên bờ suối hay những nơi ẩm ướt trong rừng thẳm.
Thạch Lan gọi là Lan đá mọc trong khe hay trên núi đá có rêu xanh.
Phong Lan là một loại sống ở trên 1 thân cây hay rễ cây khác.
Hoa Lan luôn luôn có 5 cánh và 1 cái lưỡi. Cái lưỡi này dài hay ngắn, có nhiều hình dáng khác nhau cong lên hay cuốn lại, trơn bóng hoặc có răng cưa, đó là đặc điểm của Hoa Lan và nhờ cái lưỡi đó bông Lan được tăng thêm vẻ đẹp.
Mặc dầu thuộc giống Thổ, Thạch hoặc Phong, Lan vẫn là một loài cây khó trồng và đòi hỏi nhiều công phu săn sóc và vun xới, nhưng điều kiện tiên quyết của nó vẫn là thời tiết lạnh và có sương đêm ẩm ướt. Do đó, Lan không phát triển được ở các xứ nóng và đã làm phụ lòng biết bao nhiêu người hâm mộ và nâng niu nó.
Lan được đặt tên theo hình dáng, màu sắc của lá, hoa, thân cây, củ và rể của nó, như Hạc Đỉnh, Cẩm Ngũ Hổ, Tiên Hài, Thủy Tiên, Vảy Cá Sấu, Long Nhãn, Kim Điệp, Bạch Hạc, Nhất Điểm Hồng, Lụa Vàng, Trúc Tím, Bò Cạp, Hàm Lan, Long Tu, Dương Tu, Kim Quy, Xích Thử, Hoàn Lan, Hồng Hoàng v.v... Đa số những loại Lan vừa kể trên hay nở trong mùa đông và mùa xuân. Thường thường thì những nhà chơi Lan có các loại hoa này để thưởng thức trong dịp Tết.
- Hạc Dính có tên khoa học là Phalus Wallichii, mình củ hoa mọc từ kế củ thẳng lên cao 8 tấc, cánh trắng, phơn phớt xanh và tím, lưỡi trắng tím, mà sắc như lông công. Lá giống lá non, có 5 sọc nổi. Hoa Hạc Dính trông như con hạc bay. Loại Lan này ưa đất ẩm ướt sình lầy, thường thấy ở chân núi Voi, cây số 17 và thác Liên Khương. Mùi hoa thơm thoang thoảng vào buổi sáng sớm. Lan này có nhiều trong dịp Tết.
- Gấm Ngũ Hổ: tên khoa học là Hacmatria Daw Soviân, có lá xanh vàng óng, thân là rễ, hoa mọc ở gốc lên, nở từ tháng 10 đến Tết ta. Cũng ưa ẩm ướt và thường thấy ở những nơi có nhiều lá rụng hoặc trên đá phủ rêu. Hoa chùm dài, như quả đổ, óng ánh nhiều màu tựa gấm, buổi sáng xòe ra và buổi chiều cụp lại. Vì lá Lan đẹp và hoa nó bền nên người ta trồng trong chậu sứ để trên bàn giấy hoặc trưng bày ở phòng khách.
TIÊN HÀI và VỆ HÀI (Sabot de venús): có nhiều ở Finon, Trại Mát và thác Pongour dọc theo bờ suối: Hoa mọc từ kẽ lá trở lên, giống như chiếc hài của phụ nữ, hoa này không ưa nắng. Hoa thường nở vào tháng 9 trở đi. Có hai thứ: thứ có hoa màu xanh điểm trắng và một thứ vàng nhợt có điểm tím.
Lá Tiên Hài dầy và ngắn, ở giữa hơi bầu có đốm xanh đậm, lá vệ hài dài màu xanh, mỏng hơn và không có đốm.
THỦY TIÊN (Dendrobium Farmeri) mình củ màu vàng óng, lá ngắn và xanh. Hoa chùm giống như hoa thủy tiên của Tàu. Nở ngang phía đầu củ, màu vàng, nhị sáng hơn. Cánh hoa xòe ra như bướm vàng, nở vào dịp Tết Nguyên Đán. Thủy Tiên có 6 lá, mỗi lá dài từ 10 đến 15 phân.
Thủy tiên có 3 thứ chính là: trắng, vàng, tím và thứ nào cũng thơm. Thủy Tiên trắng có cánh hóa phơn phớt trắng, lưỡi vàng. Thủy Tiên vàng có cánh hơi vàng và lưỡi trắng. Thủy Tiên tím có cánh hoa và lưỡi tím.
Ngoài ra, người ta còn thêm vào loại này hai thứ nữa là Thủy Tiên gà vì cánh hoa có màu vàng mỏ gà, lưỡi nó xanh. Thủy Tiên Râu có hoa cánh vàng và lưỡi hoa cũng màu vàng và có màu đậm hơn.
HỒNG HOÀNG: Thời tiết năm nay thích hợp với loại Hồng Hoàng cho nên Hồng Hoàng ở Đà Lạt trổ rất nhiều bông. Hồng Hoàng mình củ lá dài như lá Hoàng Lan. Bông nó mọc từ củ lên thẳng cao chừng một thước. Hoa Hồng Hoàng có cánh đỏ, lưỡi trắng và chấm đỏ Hồng Hoàng được chia thành nhiều thứ:
Hồng Hoàng cánh xanh lưỡi đỏ
Hồng Hoàng cánh vàng lưỡi trắng
Hồng Hoàng cánh tím lưỡi đỏ có điểm đà
Hồng Hoàng cánh hường lưỡi trắng chấm đỏ
Hồng Hoàng được gọi như thế, vì loại Lan nàu có củ, lá và bông nửa giống Hoàng Lan nửa giống Hồng Lan.
LONG NHÃN KIM ĐIỆP (Dendrobium fimbriatum) là loại Lan mọc ở những núi đá rậm rạp, gần suối nước. Tại Tuyên Đức, Long Nhãn Kim Điệp thấy có trong hang Thạch Sanh (trou de diable) ở thác Pongour.
Loại Lan này mình trúc, lá dày có nhiều sọc ở đầu thân cây. Khi lá rụng thì Lan trổ bông. Hoa nở từng chùm ở mỗi đốt của thân cây xòe ra như đàn bướm bay. Cánh hoa vàng hồng, lưỡi vàng sậm ở giữa có điểm đen giống như mắt rồng.
Hoa nở đưa hương thơm từ buổi trưa đến chiều tối.
HÀM LÂN: mình củ, lá dài và rộng. Cánh hoa trắng có lưỡi hai tàn đỏ lốm đốm giống như miệng con lân. Hoa có mùi thơm thoang thoảng. Có hai thứ Hàm lân: thứ cánh trắng và thứ cánh vàng lưỡi vàng.
KIM QUY: mình củ giống như con rùa, màu xanh vàng khi còn tươi và hồng hồng đỏ khi khô. Lá Lan nhỏ màu xanh và dài khoảng 15 phân. Hoa có cánh trắng và lưỡi vàng, mùi thơm.
XÍCH THỬ: mình củ nhỏ bằng ngón tay giống như con chuột, lá dài như lá cây thuốc dấu và dài từ 10 đến 15 phân. Cánh hoa đỏ có lưỡi tím và chấm trắng
THANH CHÂU: Thân dây bò trên sườn núi đá, có khi dài tới 10 hoặc 20 thước, lá tròn như quả đỗ xanh, dài khoảng 10 phân. Cánh hoa màu cẩm thạch, lưỡi màu hồng có chấm đỏ.
DƯƠNG TỬ: Còn gọi là Lan Vu Tiên, mình củ giống như cái vú, màu xanh tím hồng. Mỗi củ có một cành mọc thẳng như cành trúc, cao 70 phân, thân xanh. Lá lớn như lá mình tinh, mọc ở củ thẳng lên. Cánh hoa xanh lưỡi trắng nhiều chấm đà.
HOÀNG OANH: Một loại Lan có mình là củ lớn như củ khoai Lang và màu xanh, lá giống lá cao, bông mọc ở củ ra, phảng phất như chim Hoàng oanh, cánh hoa màu vàng, lưỡi đỏ viền ngoài trắng.
* ẢNH HƯỞNG CỦA CHIẾN TRANH ĐỐI VỚI HOA LAN:
Trên đây là một vài loại Lan trong những loại Lan nở vào dịp tết Nguyên Đán ở Đà Lạt và Tuyên Đức. Thêm vào đó còn có những loại Hoàng Lan, Mạc Lan, Giả Hạc Tím, Giả Hạc Trắng, Long Tu, Kim Điệp Lan Đầu Mực, Kim Tâm, Tuyết Mai, Túy Lan Ông, Thanh Lan, Thạch Ngọc, v.v...
Lan cũng như người và loài vật đã bị ảnh hưởng nhiều vì chiến tranh nhất là từ năm nay. Nếu so sánh với năm 1958, thì Lan năm 1968-1969 có ít hơn và nhiều loại có thể nói là không còn hoặc nếu còn sót lại thì rất ít và rất hiếm, trong đó phải nói lới Lan Giả Hạc Tím, 1 thứ phong Lan có hoa đẹp, bền và thơm như mùi trầm.
Sở dĩ tổng số Lan bị thuyên giảm hoặc sút kém rõ rệt là vì những rừng rú, núi non là nơi Lan sinh sản đã bị chiến trnah tàn phá. Những loại Lan quý thường mọc ở trong rừng sâu, núi đá cao mà vì tình hình an ninh, người đi kiếm Lan không tới đó được.
Số Lan ít đi một phần cũng vì một số nhà sưu tầm Lan và trồng Lan đã rời đi nơi khác do hoàn cảnh gia đình hoặc do công việc làm ăn, buôn bán.
Ngược lại, cũng từ vài năm nay, có thêm mấy loại Lan lạ mới tìm thấy ở Đà Lạt và Tuyên Đức chúng tôi đề cập ở đoạn trên.
* LAN ĐẸP THÊM VỚI BÀN TAY NHÂN TẠO
Lan là loại hoa quý và nó được nuông chiều thêm khi nó hội đủ cả hai điều kiện thanh và sắc. Lan sẽ đẹp nhưng người nuôi nó vun xới và chăm sóc nó muốn cho nó đẹp hơn. Vì vậy, các nhà sưu tầm Lan ở Đà Lạt từ trước tới nay đã chi phí không biết bao nhiêu thì giờ để tô điểm cho Lan.
Có những cây Lan được cấy trong khe đá của một hòn núi non bộ đặt giữa chiếc bể cạn làm bằng vỏ cây thật công phu và tốn kém. Loại Lan được cấy trên hòn núi giả này lẽ dĩ nhiên là loại Thạch Lan và khi nào Lan nở thì chủ nhân vui mừng như người được trúng số.
Có những loại Lan được ghép trong những mảnh gỗ làm theo hình dáng những nhạc khí, với cách trưng bày theo một mỹ thuật riêng biệt dung hòa cả Đông Tây Kim Cổ. Cũng có những loại Lan được cấy trên bức hoành phi hặc câu đối, Lan được uốn nắn theo hình từng chữ nho, như cung chúc tân xuân, phúc lộc thọ, gia đạo hòa hợp, v.v...
Những loại Lan vừa kể trên thuộc loại phong Lan và với lối kiến trúc cầu kỳ như thế, Lan không sống được lâu và trong một thời gian nào đó, người chơi Lan phải thay thế cây quý của mình bằng một thứ cây Lan khác.
* CHƠI HOA ĐÃ DỄ MẤY NGƯỜI BIẾT HOA
Hoa Lan không những được quý chuộng ở nước ta mà nó có một giá trị đặc biệt ở nhiều quốc gia trên thế giới.
Hoa Lan ở Tích Lan biểu hiện co sự vui mừng và hạnh phúc, vì thế các bà nội trợ thường lấy cài vào áo cho mình và con cái nhũng ngày lễ long trọng trong năm. Lan ở Tích Lan cũng được in hình nhiều lần trên các con tem nhà Bưu điện.
Ở xứ Guatémala một loại Lan trắng vừa hiếm vừa thơm đã được Bộ Canh Nông tuyển chọn làm hoa hậu năm 1934 và được in hình trên con niêm.
Hoa Lan đẹp ở Coata Rica năm 1937 và ở Colobie năm 1948 cũng đã được bán với giá 15.000 quan.
Trước thế chiến thứ nhất, những loại Lan quý như Sanda bán tới 20.000 quan một cây và loại Cooksoni giá tới 43.000 quan.
Tại Việt Nam giá hoa Lan tuỳ theo sở thích của người yêu chuộng hoa Lan. Trong cuộc triễn lãm hoa Lan ở Đà Lạt cuối năm 1958, một chậu Lan Kim Điệp bán được 2.000 trong khi đó có người thích một cây Lan Giả Hạc Tím đã mua nó với giá 3.000 đồng.
Cũng trong khi vào thăm cuộc triển lãm năm 1958, Hoàng tử Maroc Abdallah đã ngớt ca ngợi hương sắc của Hoa Lan cũng như cách thức trình bày Lan có nghệ thuật và đã lưu bút trong sổ vàng “Một dân tộc biết mến chuộng hoa Lan là một dân tộc văn minh”.
Hoa Lan thuộc loại vương giả và được các nhà nho liệt vào loại hoa quí nhất cho nên một vài nhà nho đã giỡn những người không biết thưởng thức “Bần nhân bất kiến hương”.
Nhiều người nói Hoa Lan là một nàng tiên giáng trần, xuất hiện dưới nhiều hình dạng cho nên người xem Lan đều say mê trước vẻ đẹp kiều diễm và hương thơm ngào ngạt của nó.
Có lẽ vì cảm mến hoa Lan qua nhiều một ông bạn làm nghề xe ngựa ở Đà Lạt khoảng 50 tuổi, đã bỏ nghề chở khách từ 14 năm nay để sưu tầm Lan và trồng Lan. Đó là ông Nguyễn Diệp hiện có trại trồng Lan ở đường Hùng Vương, cạnh suối Cam Ly.
Người thứ hai là ông Nguyễn Ngọc Giác có trại Lan ở đường Lý Thái Tổ và cách đây mấy chục năm ông phục vụ tại Trung tâm Thực nghiệm Lâm Sản Đà Lạt. Có lẽ vì nghề nghiệp ông thường phải vào rừng để làm phận sự và ngày ngày gặp những cây phong Lan ở trên cây cao trên núi đã lấy về nuôi ở nhà và sau đó trở thành người sưu tầm Lan. Cả hai ông vừa kể dã tham dự nhiều cuộc triển lãm hoa Lan ở Đà Lạt, tại Saigon đã từng chiếm giải nhất hoặc nhì và được huy chương bạc toàn quốc.
Cũng vì vào vườn ngắm hoa Lan một đôi trai gái ở Bắc Việt trước khi đất nước chia đôi đã gặp nhau và chia xẻ một mối tình trong trắng rồi xa nhau và hẹn tái ngộ để chắp lại mối tình cũ dưới giàn hoa xưa:
Xuân trước cùng vui ngắm hoa
Này Lan, này Cúc, nọ kia Trà...
Tình vương trên cánh Hoa Lan nở
Sắc đẹp em còn hơn sắc hoa...
Giơ tay em ngắt bông Lan quí,
Đưa tặng cho anh với nụ cười,
Với cả tình yêu trong khóe mắt
Và niềm ân ái giữa đôi môi...
Nhưng rồi khói lửa tràn lan đến
Lôi cuốn quê nhà lớp gió sương...
Chiếc nhạn chân trời xa tổ ấm,
Lòng quê bối rối sợi tơ vương!
Gặp em nhiều lúc trong mơ nhớ,
Nghĩa cũ tình xưa vẫn mặn mà...
Anh đợi em cùng xây mộng dẹp,
Tình yêu chan chứa dưới muôn hoa.
Một số vác vị khoa bảng cựu học ở Đà Lạt cũng rất ham thích hoa Lan. Vào những tháng cuối năm âm lịch, người ta thấy các cụ hay la cà khu Hòa Bình không phải đi sắm tết mà là đi xem Lan, chọn Lan để mua về trồng vào chậu thưởng thức tết cho vui. Đôi khi các cụ quên cả ăn uống. Trường hợp này có cụ Cử Tây Hồ Bùi Tấn và thi sĩ Mai Đình. Tết đến không có bánh chưng và mứt hạt sen thì cũng đành chứ không có hoa Lan thì không được. Và cụ bà có kỳ kèo, thì cụ ông sẽ ngâm:
Kỳ chủng phong Lan thế bất đa,
Tao nhân khuê bộ bất ly hoa!
Cao nguyên hoa vưu kham thưởng
Bất cầu trùng dương diệc bất sa
“Phong Lan giống lạ nhiều đâu,
Tao nhân dừng bước dễ hầu bỏ qua?
Cao Nguyên hoa quốc chăng là
Cứ gì vượt bể xa hoa mua dùng. ”
VỊET HÙNG
Viết trên Hồ Than Thở một sáng cuối đông năm Mậu Thân
(Trích báo Tự Do Xuân Kỷ Dậu)
LÂM ĐỒNG
Tỉnh lâm Đồng là tỉnh đầu tiên từ miền Nam đi lên liền ngay với tỉnh Long Khánh trên đường Saigon - Dalat.Tỉnh lỵ đặt tại Bảo Lộc.
Lâm Đồng xưa kia là một vùng rừng núi rậm rạp đầy sơn lam chướng khí, đầm lầy nước đọng, không ai lai vãng tới.
Khi người Phù Nam bắt đầu chiếm ngự vùng đồng bằng sông Cửu Long thì thổ dân vùng đó rút về vùng Lâm Đồng lập nghiệp và thành lập tiểu quốc Mạ. Người Mạ hồi đó nổi tiếng về khéo tay, biết trồng cây bông và dệt vải. Tiểu quốc này tồn tại đến thế kỷ thứ 17 và khi Chúa Nguyễn Phúc Chu chiếm được Chân Lạp, đề cử Nguyễn Bửu Kính làm Kinh lược thì tiểu quốc người Mạ trở về với dân tộc Việt.
Đến năm 1899, một phái đoàn người Pháp đặt dưới quyền ông Ernest Outrey mở một cuộc khảo sát ở vùng Lâm Đồng và nghiên cứu mở một con đường nối liền vùng này với vùng Bình Thuận.
Cũng năm 1899 vùng Lâm Đồng được tạo thành một tỉnh lấy tên là “Haut Donnai” (Đồng Nai Thượng) vì vùng này nằm ở Thượng lưu sông Đồng Nai. Và ông Ernest Outrey được bổ nhiệm làm Công sứ. Tỉnh lỵ đặt tại Djring.
Chính quyền Pháp hồi bấy giời dự trù thiết lập đường hỏa xa Saigon - Phú Yên đi qua tỉnh này nhưng dự tính không được hoàn thành thì đến năm 1903 tỉnh Đồng Nai Thượng bị bãi bỏ và đất đai bị sát nhập vào tỉnh Bình Thuận.
Đến năm 1920, tỉnh Đồng Nai Thượng được tái thiết lập với ba quận: Djiring, sau này gọi là Di Linh, Blao, sao này gọi là Bảo Lộc và Dran - Fyan, sau này gọi là Đơn Dương. Tỉnh lỵ vẫn đặt tại Di Linh.
Năm 1958, trong một cuộc cải cách các đơn vị hành chánh, quận Đơn Dương tách rời khỏi tỉnh này để nhập vào tỉnh Tuyên Đức. Cũng từ năm đó, tên tỉnh cũng đổi là tỉnh Lâm Đồng, và tỉnh lỵ cũng chuyển từ Di Linh về Bảo Lộc (Blao).
Danh từ Lâm Đồng có nghĩa như sau:
Lâm là ở trên nhìn xuống
Đồng là tên con sông Đồng Nai chảy qua tỉnh.
Lâm Đồng là một vùng Cao nguyên bao quanh những đồi núi trùng điệp có con sông Đồng Nai chảy quanh co uốn khúc.
VỊ TRÍ
Tỉnh Lâm Đồng ở phía Nam miền Thượng Cao Nguyên, trên Thượng lưu sông Đồng Nai, trên cao độ 90 thước, tỉnh lỵ cách Di Linh 49 cây số, Đà Lạt 131 cây số và Saigon 108 cây số.
Với diện tích 4.738 cây số vuông, Lâm Đồng là tỉnh nối liền vùng Cao Nguyên với miền Trung nước Việt và giáp với:
Phía Bắc: các tỉnh Quãng Đức và Tuyên Đức
Phía Nam: các tỉnh Bình Tuy và Bình Thuận
Phía Tây: các tỉnh Long Khánh và Phước Long.
Phía Đông: các tỉnh Bình Thuận và Tuyên Đức.
ĐỊA THẾ
Lâm Đồng có nhiều núi cao bao bọc, đáng kể hơn hết là các ngọn Drain cao 1.864 thước, ngọn Pantar 1.654 thước ở phía Nam Di Linh, ngọn Boun Trao cao 1.465 thước ở phía Bắc thị xã bảo Lộc và ngọn B’Nom M’Hai cao 1.642 thước ở phía Nam thị xã.
Ngoài ra còn nhiều đồi núi nhỏ, nối liền nhau nằm rải rác trong toàn tỉnh với rừng rậm bao phủ.
Về phương diện địa chất Lâm Đồng là một vùng đất đỏ có pha cát ít đá, thích hợp cho việc khai khẩn trồng trọt.
SÔNG NGÒI
Hai con sông chính chảy qua Lâm Đồng là sông Đồng Nai và sông La Ngà.
Sông Đồng Nai phát nguyên từ dãy núi Lang Bian ở độ cao 2.615 thước, chảy xuống vùng Đơn Dương, tạo nên sông Dabla, rồi chảy đến Đại Ninh thành sông Đa Nhim. Chảy suốt qua hạt Đại Ninh thì gặp sông Da Dung. Sông chảy qua hết tỉnh Lâm Đồng thì gặp gặp sông La Ngà ở Thanh Sơn cách Định Quán 10 cây số về phía Đông.
Sông La Ngà phát nguyên từ núi Boun Trao 30 cây số Bắc Bảo Lộc chảy xuống phía nam, cách quốc lộ 20 10 cây số về phía tây Bảo Lộc, gặp ranh giới tỉnh Bình Thuận thì chảy về phía Đông qua vùng đất tỉnh Bình Tuy ở Võ Đất, rồi chảy ngược lên quốc lộ 20 ở Định Quán, họp với sông Da Dung để làm thành sông Đồng Nai.
KHÍ HẬU
Tỉnh Lâm Đồng cao hơn Saigon 900 thước và thấp hơn Dalat 600 thước, do đó khí hậu không giống hai nơi này. Quanh năm trời mát mẻ, không quá lạnh cũng không quá nóng, nhiệt độ trung bình từ 22 độ đến 29 độ. Lâm Đồng có hai mùa riêng biệt.
- Mùa nắng từ tháng 10 đến tháng 4 dương lịch, nhiệt độ thay đổi từ 16 độ đến 29 độ.
- Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 9 dương lịch, nhiệt độ thay đổi từ 16 độ đến 20 độ.
Có thể nói được rằng, Lâm Đồng quanh năm mưa thuận gió hòa, thỉnh thoảng cũng có những trận mưa khá lớn, nước lũ đổ về nhiều và cũng có khi có nhiều ngày nắng liên tiếp, nắng nhưng không quá nóng.
DÂN CƯ
Dân chúng Lâm Đồng gồm người Kinh (37.764 người), người Thượng (27.747), một số Pháp Kiều ước lượng 50 người và vài ba người Tàu, Mỹ và Gia Nã đại.
Riêng đồng bào Thượng thuộc hai sắc dân Koho và Rơglai được phân chia như sau:
1. Koho gồm:
Mạa 15.039
Sré 9.346
Nop 981
Tổng cộng 25.366
2. Rơglai 2.381
GIAO THÔNG
- Quốc lộ: Quốc lộ 20 nối liền Saigon - Đà Lạt dài 300 cây số chạy qua tỉnh Lâm Đồng vào khoảng 111 cây số và phải vượt qua hai đèo: đèo Blao (Bảo Lộc) và đèo Ông Cố.
- Liên tỉnh lộ: Liên tỉnh lộ số 8 nối liền Di Linh - Phan Thiết dài 97 cây số 500 chạy trong địa phân Lâm Đồng vào khoảng 55 cây số. Đường đi khó khăn, nhiều đá chưa tráng nhựa, lại phải vượt qua nhiều đèo: Da Troun, Yankar, Haloua, Bouknel.
Liên tỉnh lộ số 8 kéo dài 147 cây số nối liền Di Linh với thị xã Gia Nghĩa (97 cây số) và Gia Nghĩa với Đức Lập (50 cây số). Phải qua phà Kinh Đức, ranh giới giữa hai tỉnh Lâm Đồng và Quảng Đức.
- Hương lộ: đa số Hương lộ đi từ tỉnh lỵ, quận lỵ tới các trong, các xã, là những con đường mòn,về mùa mưa bùn lầy đất đỏ nên khó di chuyển. Ngoài ra còn có một số đường ở trong các đồn điền giúp đỡ cho sự di chuyển quanh vùng rất dễ dàng.
TỔ CHỨC HÀNH CHÁNH
Về phương diện hành chánh, tỉnh Lâm Đồng có hai quận mỗi quận đặt dưới quyền một vị Quận Trưởng. Hai quận đó là:
Quận Di Linh trụ sở đặt tại xã Di Linh, gồm 4 tổng, 11 xã, 52 ấp với dân số 42.753 người.
Tổng cộng 2 quận, 7 tổng, 24 xã, 95 ấp và 65.561 người.
Đứng đầu tỉnh ngày nay là một tỉnh trưởng có 3 phó tỉnh trưởng phụ tá về hành chánh, và Thượng vụ. Lại có một số các Ty, Sở chuyên môn giúp việc.
PHONG TỤC
Người Việt Nam ở Lâm Đồng sống theo nếp sống chung của mọi người Việt.
Về tôn giáo đồng bào Thượng tin theo Thần linh, còn người Kinh là tín đồ của bốn tôn giáo sau đây:
Đạo Gia Tô, 35% dân số. Phần lớn đây là những người ở Bắc Việt, được các Linh mục đưa di cư vào miền Nam sau Hiệp định Genève.
Đạo Phật, 30% dân số. Hiện ở Lâm Đồng có bốn ngôi chùa.
Đạo Tin Lành 5 % dân số, đa số là đồng bào Thượng. Hiện ở Lâm Đồng có hai nhà giảng.
Đạo Cao Đài, 5% dân số. Hiện Lâm Đồng có hai thánh thất.
Còn lại 25% là các đồng bào Thượng và một số người Kinh không theo đạo nào, chỉ thờ cúng tổ tiên và Thần linh.
Về các phong tục của đồng bào người Thượng, chúng tôi đã trình bày rõ ở chương thứ II, chương nói về đồng bào Koho và đồng bào Rơglai.
KINH TẾ
Lâm Đồng tuy ở Cao nguyên, nhưng nhờ các lâm sản và ở ngay trên quốc lộ số 20, nên có một nền kinh tế cũng khả quan.
Canh nông Lâm Đồng có hai thứ lúa, lúa núi và lúa gieo, thứ sau này cày cấy như ở miền xuôi, có một diện tích ước lượng vào khoảng 2.200 mẫu tây.
Hàng năm cả hai thứ lúa được sản xuất vào khoảng 7.650 tấn, tuy mỗi năm chỉ có một mùa, gieo hạt vào tháng 5 dương lịch và gặt vào tháng 11.
Ngoài lúa ra, Lâm Đồng còn có các hoa màu khác; đáng kể nhất là trà và cà phê. Số sản xuất hàng năm của hai hoa màu này là:
Trà khô: 2.500 tấn
Cà phê, gạo: 480 tấn
Các hoa màu khác là khoai lang, khoai mì, bắp, cacao, sơn ta, dâu nuôi tằm và trái cây như sầu riêng, bơ, mít, cam, quýt, bưởi, chuối, đu đủ. Đu đủ Lâm Đồng nỏi tiếng ngon ngọt, bơ (avocatier) giống đầu tiên ở Việt Nam tại Di Linh và đặc biệt là sầu riêng trái mùa. Khi mùa sầu riêng tại miền Nam đã dứt thì sầu riêng Lâm Đồng bắt đầu ra trái và nhiều dân nghiền đã không quản đường xa, đèo dốc lên tận nơi đặt mua.
Đồn điền: Tổng số đồn điền lớn nhỏ ở tỉnh Lâm Đồng là 409 cái với diện tích 19.138 mẫu tây phân chia như sau:
209 đồn điền thực trưng và tạm trưng rộng 12.018 ha.
200 đồn điền đất gốc mua của đồng bào Thượng rộng 6.120 ha
Đa số các đồn điền này trồng trà và cũng là nơi trồng trà nhiều nhất tại Việt Nam.
Lâm sản: Ba phần tư diện tích của tỉnh Lâm Đồng là núi, đồi và rừng. Tổng số rừng chưa được khai phá chia ra như sau:
- Rừng cấm: 19.440 mẫu
- Rừng bảo vệ: 416.000 mẫu
Hằng năm rừng Lâm Đồng cung cấp:
- Gỗ thông: 9.000 m3
- Gỗ dầu: 6.000 m3
- Gỗ Sao: 1.200 m3
- Gỗ cẩm lai: 15 m3
- Gỗ bạch tùng: 62 m3
- Củi: 1.650 xi tẹc
- Tro: 7.850 xi tẹc
- Nhựa thông: 562 tấn
- Dầu thông: 1.000 lít
Mục súc: Với những đồi cỏ tươi tốt bốn mùa, và một khí hậu ôn hòa nên việc chăn nuôi gia súc ở tỉnh này rất có kết quả. Trong mấy năm gần đây, Ty mục súc Lâm Đồng đã giúp đỡ và khuyến khích dân chúng việc chăn nuôi. Hiện trong tỉnh có rải rác nuôi vào khoảng 1.200 bò và 4.500 trâu và 14.500 lợn.
Khoáng sản: Cho tới nay chưa có mỏ nào được khai thác ở Lâm Đồng, mặc dù theo dư luận dân chúng địa phương, Lâm Đồng có thể có được các mỏ:
- Mỏ vàng vùng Kala
- Mỏ đá đen ở vùng Gia Bắc
- Mỏ than đá ở ấp Lam Sơn, xã Thiện Lạc, quận Bảo Lộc
Thương mại:
Lâm Đồng có 6 ngôi chợ, trong đó có 3 chợ lớn là: Chợ Bảo Lộc, chợ Di Linh và chợ Tân Bùi. Những chợ này họp hàng ngày, và bán đủ các mặt hàng, nhất là những thổ sản trong tỉnh. Đồng bào Thượng cũng tới các chợ này mua bán.
Sản phẩm trong tỉnh bán ra là chè, cà phê, gạo, thuốc lá và rau cỏ, đáng kể trong rau cỏ là su su mỗi năm nơi đây sản xuất 10.000 tấn và khoai lang mỗi năm 1.000 tấn, lại còn các trái cây như mít, ổi, dưa.
Gỗ cũng là một món hàng bán ra của tỉnh, mỗi năm 10.000 thước khối, thêm vào đó 50 tấn nhựa thông.
Lâm Đồng mua vào tơ lụa, vải, dược phẩm, nước mắm, mắm, muối và các đồ chế hoá khác.
Kỹ nghệ: Kỹ nghệ chính của Lâm Đồng là kỹ nghệ biến chế trà. Toàn tỉnh có 5 nhà máy lớn, 70 nhà máy nhỏ. Ở đây có xưởng nấu nhựa thông, có nhà máy nước đá và nhà máy cưa.
Theo tài liệu của Bộ Lao động thì Ty Lao động Lâm Đồng kiểm soát 147 xí nghiệp.
Xã hội: Tuy ở Cao nguyên, nhưng vấn đề xã hội của tỉnh cũng rất được chú ý.
Giáo dục: Tỉnh có tất cả 5 trường trung học, 2 trường công lập ở Bảo Lộc và Di Linh, 1 trường Tư thục ở Tân Thanh, 2 tư thục ở Thiên Lạc. Tổng số học sinh cả 5 trường vào khoảng 1.400 nam nữ.
Về tiểu học toàn tỉnh có 7 trường công lập trong đó có 2 trường Thượng. Tổng số học sinh nam nữ vào khoảng 800 em.
Ngoài ra còn có 9 trường Tư thục với tổng số nam nữ học sinh vào khoảng 7.600 em.
Về sơ cấp có 5 trường Tư thục với tổng số nam nữ học sinh vào khoảng 650 em.
Y tế: Lâm Đồng có hai bệnh viện ở Di Linh và Bảo Lộc
Cứu tế xã hội: Tỉnh có một ủy ban cứu tế, 5 vừa cô nhi vừa ký nhi viện, một viện dưỡng lão ở Tân Phát và đặc biệt nhất là trại Cùi ở Di Linh.
THẮNG CẢNH, CỔ TÍCH VÀ DU LỊCH
Lâm Đồng là một tỉnh mới thành lập, không có nơi cổ tích nào đáng kể, tuy nhiên du khách có thể tới thăm các nơi sau đây:
- Thác Bobla: Ở cách Di Linh 6 cây số, tại cây số 213 quốc lộ 20, đi vào khoảng 300 thước. Thác cao 30 thước, nước đổ xuống rất mạnh. Ở đây có một nhà máy thủy điện để cung cấp điện cho toàn tỉnh.
Đèo Đa Truon: Cách quận lỵ Di Linh 15 cây số, về phía Nam, cao 1.235 thước. Đứng trên đèo nhìn phong cảnh Lâm Đồng rất đẹp.
Đèo Yankar: Cách quận lỵ Di Linh 19 cây số, về phía Nam, cao 1.295 thước. Dưới chân đèo có rừng thông bao bọc. Khi trời quang đảng đứng trên đèo ta có thể nhìn thấy đồng bằng Phan Thiết và bể Đồng Nai.
- Suối Đa Hòa: ở cây số 158 quốc lộ 20, suối to, nước trong xanh bốn mùa. Dọc theo suối có nhiều tảng đá đẹp có cây to bóng mát du khách trên đường Saigon - Đà Lạt thường dừng lại nghỉ ngơi.
- Suối Tân Thanh: Ở xã Tân Thanh quận Bảo Lộc, nước suối từ trên cao 10 thước đổ xuống. Dọc theo suối là những đồi chè xanh ngắt.
- Thác bảy tầng: Ở ấp Đại Lào, xã Châu Lạc, quận Bảo Lộc, nước trên thác đổ xuống, qua bảy tầng đá và bắn tung tóe ra như những mảnh sương mờ buổi sáng. Tiếng thác nghe rì rào như mưa sa.
TRUNG TÂM THỰC NGHIỆM NÔNG SẢN BẢO LỘC
Năm 1930, Nha khảo cứu Đông Dương cho các chuyên viên Canh nông đến Bảo Lộc để nghiên cứu đất đai và khả năng canh tác về cây kỹ nghệ. Một trung tâm thực nghiệm nông học ra đời để đáp ứng nhu cầu khẩn thiết về những loại cây kỹ nghệ và nhất là để khai thác những tài nguyên khác về canh nông, do ông Tổng Thanh tra Canh nông Yves Henry, trung tâm đầu tiên đặt ở Trường Quốc gia Nông Lâm Mục hiện thời Trung tâm này được thiết lập nghiên cứu ngành trồng trà, cà phê, tiêu, cam, quýt, quiquina, v.v... là vì trong những điều kiện đất đai tương ứng như ở Bảo Lộc, người ta đã trồng được những loại cây tương tự này. Trung tâm ở trên một khoảnh đất bằng phẳng và rộng, diện tích ước lượng 1.000 mẫu tây với địa thế rất thích hợp và khảo cứu đặc biệt về:
- Những race trà Shan và Assam, Manipur, v.v...
- Sáu giống trà Shan, Trấn Ninh, Shan Pakha, San Makomen, Shan Hoàng Su Phì, Shan Bắc Quang, Shan Bầm Vé.
- Trà cành
- Café Arabica, Chari, Robusta.
- Những giống cây ăn trái ngoại quốc.
- Sưu tầm cây rừng.
Song song với sự phát triển của trung tâm, một sở di dân được tiết lập năm 1940 (Ferme de Colonisation du haut Donai). Mà hiện nay là Trung tâm Thực nghiệm Nông sản Bảo Lộc có mục đích thí nghiệm để phổ biến những kỹ thuật tân tiến cho hai lớp nông dân cả Kinh lẫn Thượng.
a. Trung tâm Thực nghiệm Nông sản dành quyền tuyển mộ những người Bắc di cư vào Nam và cho phục vụ tại trung tâm. Sau đó để khuyến khích sự khuyếch trương về công kỹ nghệ. Trung tâm mới cấp đất cho nhân công tuyển mộ với sự trợ giúp kỹ thuật trồng tỉa của chuyên viên Trung tâm. Ngoài ra trung tâm này đặt dưới quyền điều khiển của ông Tôiza cho thiết lập những công ốc dành cho nhân viên, nhà bò, trồng 6 mẫu trà Shan Trấn Ninh, 6 mẫu café Arabica, vườn cam, quýt, đồng cỏ, chuồng trại, v.v...
b. Ngoài ra Trung tâm đặc biệt chăm sóc đời sống cho 7 làng Thượng Tran Tourné, Podiam, B’Sou-nguer, Pirf, Djra-kernoul, Tran-Pirl và Tran Hu. Số dân này được cung cấp: hạt giống như café, cây ăn trái, hạt giống rau, v.v...
Mãi đến tháng 3 năm 1945 Trung tâm Thực nghiệm Nông học (Trường Nông Lâm Súc bây giờ) bị bỏ phế trong những năm chính trị không ổn định năm 1945 - 1946.
Mãi đến sau năm 1947 viện Khảo cứu Nông học Đông Dương cho thiết lập lại Trung tâm sau 2 năm bỏ phế. Bắt đầu từ năm nay sở di dân Đồng Nai được gọi là Trung tâm Thực nghiệm Nông học số 2.
Khảo cứu về cây ăn trái:
Tỉnh Lâm Đồng tuy không hẳn là vùng trồng cây ăn trái, nhưng Lâm Đồng cũng có thể trồng được một vài loại cây ăn trái để đáp ứng được nhu cầu trong tỉnh. Do đó Trung tâm Bảo Lộc trong những năm qua cũng có du nhập các loại cây ăn trái như các giống cam quýt ở ngoại quốc để thí nghiệm thuỷ thổ.
1. Thí nghiệp thủy tổ các loại cam, quýt, hiện tại Trung tâm có những giống cam, quýt như sau:
Cam ngoại quốc: Thonsons navel, Golden Buckye, Venin, Vidigueirn...
(sách gốc bị mất một tờ (2 trang)).
thấy môi trường Bảo Lộc tỏ ra thích hợp vơi ngành nuôi ong.
Vào giữa năm 1964, Nha khảo cứu gửi cho Trung tâm 2 thùng ong Ý Đại Lợi, tuy nhiên vì bệnh cho nên ong sa sút và chết mòn dần nên phải sát nhập thành một thùng. Mãi sau này nhờ khảo cứu nhiều tài liệu cũng nhờ trực tiếp học hỏi ở những phòng trường lớn có chuyên viên nuôi ong kinh nghiệm Trung tâm mới phục hồi lại bầy ong. Hiện nay số thùng ong đã đạt được 6 thùng và trong tương lai sự phát triển về ngành này sẽ rộng lớn hơn để có thể cung cấp ong giống, sáp, mật cho thị trường bên ngoài. Phải nhận rằng ngành nuôi ong ở Việt Nam còn quá phôi thai, tổng cộng số thùng nuôi được ở miền Nam không qua 1.000 thùng so với các nước khác như Trung Hoa Quốc Gia, Nhật Bản, Mỹ Châu, Pháp thì sự khảo cứu về ngành này đã vượt đến mức độ cao. Hiên mật ong rất có giá trị ở thị trường và là một nguồn lợi lớn lao cho những người khai thác về ngành này. Hơn nữa, với số diện tích rộng lớn về cây ăn trái, cây kỹ nghệ, nguồn phấn hoa và mật ở bên ngoài còn rất nhiều và việc phát triển ngành nuôi ong tỏ ra thuận lợi. Ngoài ra, ong mật không những cung cấp mật và sáp mà còn giúp cho ngành công nông được phát đạt là vì ai cũng biết rằng chúng ta có cây trái để ăn, mật phần lớn là nhờ ong mật trong khi đi lấy phấn hoa, vô tình đã đem bồ nhị đực sang bồ nhị cái giúp cây dễ thụ tinh.
Hiện nay tất cả mọi hoạt động quốc gia đều hướng về xây dựng nông thôn để kiến tạo một xã hội mới cho người dân. Trung tâm Thực nghiệm Nông sản dã đóng một vai trò khiêm nhường trong hoạt động kinh tế của quốc gia. Hy vọng rằng trong tương lai gàn đây Trung tâm Thực nghiệm có cơ hội phục hồi lại địa vị như xưa để có thể phục vụ tối đa cho nông dân, thành phần căn bản của đất nước.
(trích địa phương chí Lâm Đồng)
(CỬU LONG GIANG. TOAN ÁNH - Cao nguyên miền Thượng.: S, 1969).