Đường địa giới phía bắc là đường Châu Văn Liêm, Mai Anh Đào ngày nay, phía đông từ đường Vòng Lâm Viên đến Trại Mát, phía tây nam là hàng rào sân bay Cam Ly. Về phía tây bắc, đường địa giới kéo dài tận các dòng suối phía bắc hồ Đăng Kia.
Năm 1953, thị xã Đà Lạt do một thị trưởng quản lý với sự tham gia của Hội đồng thị xã.
Trực thuộc thị xã Đà Lạt có 7 công sở: Tòa Thị chính, Sở Y tế, Sở Quản lý đường bộ, Sở Cảnh sát, Sở thú y, Sở Thuế, Sở An ninh.
Trước năm 1953, phần lớn đường phố ở Đà Lạt mang tên các Toàn quyền (Paul Doumer, Albert Saraut, René Robin...), Khâm sứ (Charles, Graffeuil, ...), công sứ, thị trưởng (Champoudry, Cunhac...), danh nhân nước Pháp (Lamartine, Pasteur, Calmette...), các nhân vật đã thám hiểm cao nguyên Lang Biang (Yersin, Thouard...). Chỉ có vài con đường mang tên Việt Nam: Gia Long, Minh Mạng, Đồng Khánh, Khải Định, Quận công Long Mỹ, Pétrus Ký, Cầu Quẹo, Lò Gạch...
Năm 1953, Nguyễn Vỹ - Chủ nhiệm kiêm Chủ bút báo Dân Chủ, đắc cử Hội đồng thị xã Đà Lạt, đã đề nghị đổi hầu hết tên đường sang tên Việt Nam như phần lớn các tên đường hiện nay và đặt thêm tên cho nhiều con đường mới (Tăng Bạt Hổ, Trần Nhật Duật, Cô Bắc...)
Tuy diện tích Đà Lạt lúc bấy giờ chỉ bằng 17,1% diện tích hiện nay nhưng Đà Lạt giữ một vị trí rất quan trọng.
Ngày 24 - 4 -1949, Bảo Đại trở lại Việt Nam làm “Quốc trưởng” và thành lập Hoàng triều Cương thổ.
Từ năm 1949, Đà Lạt là thủ phủ của Hoàng triều Cương thổ và cao nguyên miền Nam (người Pháp gọi là P.M.S.I.: pays montagnards du Sud de I’Indochine). Bảo Đại và hoàng gia sống trong một biệt điện (nay là Dinh III ở đường Triệu Việt Vương) gần rừng Ái Ân (Bois d’Amour) và thung lũng tình yêu (Vallée d’Amour), có một trung đoàn ngự lâm quân và một đoàn xe đặc biệt gọi là “Công xa biệt điện” giúp việc.
Bảo Đại cho mua biệt thự xây dựng năm 1929 của ông Robert Clément Bourgery, sửa sang lại và dùng làm văn phòng, họp nội các và các quan chức Hoàng triều Cương thổ. Dinh được đặt tên là Dinh Gia Long (nay là Dinh I ở đường Trần Quang Diệu).
Nửa thế ký trước, khí hậu Đà Lạt rất lạnh. Sương mù thường xuất hiện vào buổi sáng và nhiều hôm cả vào buổi chiều. Những hôm như thế, Đà Lạt đẹp như một bức tranh thủy mặc. Do đó một số người gọi Đà Lạt là “thành phố sương mù”.
Đà Lạt còn rất hoang vu. Ở hướng đông và bắc của thị xã Đà Lạt có một con đường rừng gọi là Tour de chasse (đường vòng săn bắn) hay Tour de 99 points de vue (thi sĩ Quách Tấn dịch là đường 99 ngoạn cảnh). Đường chạy giữa rừng thông và các ngọn đồi, rất vắng vẻ, thỉnh thoảng xuất hiện vài con cà toong - một loài nai nhỏ rất dễ thương nay hình như đã bị tuyệt chủng.
Ngoài các ấp sản xuất rau hoa của người Việt Nam (Ánh Sáng, Đa Thành, Đa Lợi, Đa Thiện, Hà Đông, Nghệ Tĩnh, Tây Hồ, Sào Nam...), Đà Lạt có 4 trang trại do người Âu quản lý: Đăng Kia của ông Lecomte, Cam Ly của ông Beurnez, Saint Benoit của ông Faraut, Savoie cua ông Grillet. Đàn gia súc (bò, cừu...) có khoảng 2.000 con.
Năm 1953, Đà Lạt sản xuất hàng năm được 6.000 tấn rau cung cấp cho các tỉnh miền Trung, Nam Bộ, Campuchia và nhiều nhất là chợ Cầu Muối ở Sài Gòn.
Phương tiện vận chuyển lúc bấy giờ là xe lửa và ô tô. Xe lửa chạy từ Đà Lạt đến Tháp Chàm rồi ra Nha Trang hay vô Sài Gòn. Ô tô đi Sài Gòn phải mất hai ngày. Ngày đầu tiên, ô tô đi từ Đà Lạt đến Blao (nay là Bảo Lộc). Tại đây ô tô dừng lại một đêm để chờ hôm sau mới đi tiếp theo đoàn công voa (con voi) tổ chức mỗi tuần hai lần. Trong đoàn công voa, ngoài xe vận tải, xe đò, còn có xe quân sự (thường gọi là “xe nhà binh”) và cả xe bọc thép.
Ngoài quốc lộ 20, để đến Đà lạt còn có thể sử dụng 3 quốc lộ khác:
- Quốc lộ 11 từ Phan Rang (tỉnh Ninh Thụân) qua đèo Ngoạn Mục (Bellevue) đi ngang qua Dran, Cầu Đất.
- Quốc lộ 8 từ Ma Lâm (tỉnh Bình Thuận) lên Djiring rồi đến Đà Lạt hay đi ngang qua Kin Đạ (Kinda) và gặp đường Sài Gòn - Buôn Ma Thuộc ở khoảng vùng Ba Biên Giới (Trung bộ - Nam bộ - Campuchia).
- Quốc lộ 27 từ Buôn Ma Thuộc đến ngã ba Liên Khàng (cách Đà Lạt 30 km trên đường Đà lạt - Djiring) và ngang qua đồn Lắc (tỉnh Đắc Lắc), Fyan (tỉnh Đồng Nai Thượng).
Từ Phan Rang lên Đà Lạt, hành khách chủ yếu sử dụng xe lửa, xe cộ ít chạy trên quốc lộ 11 vì đường đèo Ngoạn Mục rất hẹp, xe phải chạy một chiều theo ngày chẵn hay lẻ.
Đà Lạt có 2 sân bay: sân bay Cam Ly cách trung tâm Đà Lạt 3 km về phía tây dành cho máy bay có động cơ nhỏ, sân bay Liên Khàng cách trung tâm Đà Lạt trên 30 km về hướng nam dành cho máy bay động cơ lớn.
Đà Lạt còn có Sở Bưu chính - Viễn thông, Chí nhánh Ngân hàng Đông Dương và một số công ty thương mại, công nghiệp và nông nghiệp: Công ty trừ mối, Công ty Lâm sản và Công nghiệp Cao nguyên, công ty Xây dựng Đà Lạt, Công ty Poinsard và Veyret (chi nhánh Viễn Đông), Công ty Lâm sản và Diêm quẹt Đông Dương, Công ty Phim và Chiếu bóng Đông Dương, Công ty tiếp phẩm Sài Gòn (COSARA), Công ty nước và điện Đông Dương, hàng không Việt Nam, Hợp tác rau hoa Cao Nguyên, Nghiệp đoàn vận tải.
Về y tế, ngoài Bệnh viện Quân y Catraux dành cho quân nhân còn có Bệnh viện dân y (nhà thương Đà Lạt) và Viện Pasteur chuyên sản xuất vaccin.
Trước năm 1960, ngôi chợ chính ở Đà Lạt nằm ở vị trí rạp 3 tháng 4, khu Hòa Bình ngày nay. Chợ rộng 900 m2 (dài 16m, rộng 15m) được xây dựng vào năm1934 sau khi Chợ Cây bị cháy vào đêm 28 rạng 29 - 4 -1931. Đây là một ngôi chợ kiểu nhà lồng, bốn phía không có tường. Chợ họp từ sáng đến 4 giờ chiều. Vào khoảng 4 giờ, một người lao công xịt nước rửa chợ. Khoảng đất rộng trước chợ và khu vực quanh chợ gọi là Palace du Marché (Quảng trường chợ).
Những cửa hiệu tạp hóa lớn nhất chung quanh chợ đều nằm trong tay người Hoa (Vĩnh Chấn, Vĩnh Hòa, Đức Xương Long, Chic Shanghai, Mêkông...) người Việt chỉ sở hữu những cửa hàng nhỏ (Phúc Thái Lai, Le Saigonnais, Jaspa...). một nguời thợ may học được nghề cắt may ở Paris đã mở một hiệu may áo veste nổi tiếng với bảng hiệu Parimode (kiểu Paris).
Ở dãy nhà giữa chợ cũ và chợ mới (dãy kí-ôt hiện nay) có các cửa hiệu của người Pháp và người Ấn Độ. Hiệu sách Imprimerie de Dalat của người Pháp là nơi giao dịch của nhà in và bán sách, báo, văn phòng phẩm, dụng cụ học sinh nhập từ Pháp. Cửa hàng của người Ấn Độ bán tơ lụa, giày dép, mỹ phẩm, gọi là bazar.
***
Những người yêu thích thể thao tìm thấy ở Đà Lạt một môi trường thích hợp. Một trong những địa điểm thể thao hấp dẫn là nhà thủy tạ.
Người Pháp gọi nhà thủy tạ là la grenouillère có nghĩa là tổ ếch. Nhà thủy tạ có một tấm ván nhào (plongeoir), người bơi lội nhào từ tấm ván xuống nước giống như con ếch.
Buổi chiều, sau giờ giảng dạy, các giáo sư thường đến nhà thủy tạ để chèo thuyền hai mái chèo (périsoire) hay lái thuyền buồm (yacht) trôi trên mặt hồ. Buổi trưa, học sinh đến đây để học bơi và vẫy vùng trong nước.
Môn thể thao người Đà Lạt ưa thích nhất lúc bấy giờ là đá bóng. Vào chiều chủ nhật, trên sân vận động Đà Lạt thường tổ chức đá bóng. Chương trình đá bóng gồm có hai trận: trận mở màn và trận chính thức. Trận mở màn là trận đấu giữa học sinh các trường học. Trận chính thức là trận đấu giữa các đội nghiệp dư của các công sở, nổi tiếng nhất là hai đội Công xa Biệt điện và Sở Địa dư. Câu lạc bộ thể thao của người Pháp cũng tổ chức một đội bóng nhưng không tài giỏi bằng các đội người Việt Nam. Thỉnh thoảng, đội Ngôi sao Gia Định, AJS ở Sài Gòn cũng lên Đà Lạt tham dự thi đấu.
Những vũ trường thành lập từ trước năm 1945 (Au chat botté, la lune, La croix du Sud, L’ambiance, le cabaret, night Club) vẫn tiếp tục hoạt động về đêm.
Đà Lạt có 4 rạp chiếu bóng: Eden(1), Langbiang(2), Annam(3), Lae colibri(4), sang trọng nhất là rạp chiếu bóng Eden.
... Nửa thế kỷ đã trôi qua... bầu trời Đà Lạt vẫn xanh màu ngọc bích, mây vẫn lững lờ trôi, nhưng, thiên nhiên con người ... đã có biết bao thay đổi. Đó cũng là sự thay đổi tất yếu vậy.
NGUYỄN HỮU TRANH
(TẠP CHÍ XƯA VÀ NAY; SỐ 150 THÁNG 10 NĂM 2003; TR. 24 - 25)
(1) Khách sạn, nhà hàng Ngọc Lan ở đường Nguyễn Chí Thanh.
(2) Nay ở vị trí cây xăng giữa khách sạn Liên Hiệp và rạp Giải Phóng
(3) Nay ở vị trí nhà số 55 đường Nguyễn Văn Trỗi
(4) Nay ở vị trí nhà số 5 đường Phan Bội Châu